Lễ hội Phủ Trịnh nhìn từ góc độ văn hóa



Lễ hội Phủ Trịnh tại xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa là một hình thái thờ cúng tổ tiên kết hợp với các nghi lễ Vương phủ ở TK XVII – XVIII. Hình tượng, biểu tượng văn hóa ở lễ hội chính là những sắc thái nhân văn và công nghiệp của […]

Lễ hội Phủ Trịnh tại xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa là một hình thái thờ cúng tổ tiên kết hợp với các nghi lễ Vương phủ ở TK XVII – XVIII. Hình tượng, biểu tượng văn hóa ở lễ hội chính là những sắc thái nhân văn và công nghiệp của Thế Tổ Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm và Vương Mẫu ông. Lễ hội Phủ Trịnh còn phản ánh đặc trưng văn hóa của xã hội Việt Nam ở TK XVII – XVIII và giá trị văn hóa truyền thống, mạch nguồn có từ thời trước. Việc phục dựng lễ hội Phủ Trịnh ở thời hiện đại cần hướng đến sự bảo tồn có chọn lọc, tạo nên những giá trị điển hình, đặc trưng riêng, đồng thời đảm bảo cho việc duy trì bền vững lâu dài của lễ hội trong bối cảnh mới.

1. Dấu tích lịch sử về việc thờ cúng tổ tiên của nhà Trịnh ở TK XVII – XVIII ở Phủ Trịnh, Nghè Vẹt

Thờ cúng tổ tiên của người Việt có lịch sử từ rất xa xưa, có thể khởi thủy từ thời văn hóa Đông Sơn. Đây là một nghi lễ đặc biệt của người sống đối với người đã đi vào “cõi linh”, đồng thời đó còn là một thái độ tri ân đối với “bề trên” của con cháu trong dòng họ. Khi Nho giáo phát triển, việc thờ cúng tổ tiên được đặc biệt chú trọng, xem đó là một phần thể hiện ở “Hình Nhi Hạ” cái tinh thần, tư tưởng của “Hình Nhi Thượng” theo luận thuyết của Nho Giáo. Sách Luận Ngữ viết về hành vi cần có của người làm con là “Sinh sự chi dĩ lễ, tử táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ” nghĩa là: khi cha mẹ còn sống thì lấy lễ mà cung phụng, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế…Tuy nhiên, cái nghĩa của hai chữ “Đạo Hiếu” mà Khổng Tử coi trọng là ở tâm ý hơn là hình thức, ông cho rằng: Phụng hiếu cha mẹ khi còn sống phải khiêm nhường, nhẹ nhàng, nhẫn nhại can ngăn nếu thấy có trái ý mình, dẫu đau đớn, nhọc tâm nhưng phận làm con vẫn phải kiệm nhịn, không bao giờ được oán giận cha mẹ. “Sự phụ mẫu cơ gián, kiến chi bất tòng, hựu kính bất vi, lao nhi bất oán” và “Lễ dữ kỳ xa dã, ninh kiệm; Tang dữ kỳ dị dã, ninh thích”2, tức: Lễ mà xa xỉ thì thà rằng kiệm ước vẫn hơn; tang mà nghi văn quá thì rằng thương buồn còn hơn… Với tinh thần đó, người Việt khá giản dị về hình thức trong việc cúng tế gia tiên, nhưng lại rất chu toàn lễ tiết. Vị trí bàn thờ tổ tiên được chọn đặt nơi trang trọng nhất của căn nhà, hay có điều kiện một dòng họ lập riêng một điện thờ tổ (nhà thờ họ), việc thờ cúng được trịnh trọng thực hiện hàng năm vào các ngày “nhật kỵ” tức ngày giỗ, ngày “sóc” tức ngày mùng một đầu tháng âm lịch, hay ngày “vọng” là ngày rằm của tháng…

Nghi thức thờ cúng tổ tiên được điển chế hóa ghi trong bộ Quốc triều hình luật biên soạn hoàn chỉnh vào thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497). Bộ luật khẳng định nghĩa vụ của con, cháu trong một gia tộc: “Con cháu phải thờ cúng tổ tiên 5 đời (tự mình là con, tính ngược lên 4 đời là: Cha, mẹ, ông bà, cụ, kỵ); ruộng hương hỏa, ruộng đèn nhang, cơ sở kinh tế để duy trì thờ cúng tổ tiên dù con cháu nghèo cũng không được cầm bán…”3. Sách Thọ mai gia lễ của thời Nguyễn đã cụ thể hóa các công việc, văn khấn, nghi thức, ăn mặc, lễ tiết trong tang ma, giỗ cúng. Ngoài ra, trong bộ luật Gia Long thời Nguyễn còn quy định nhiều chế tài, quy định trách nhiệm, quyền thừa hưởng điền địa, gia sản cho con cháu, người được hưởng điền địa, gia sản theo luật dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên4.

Mặt khác, cho thấy việc cúng tế tổ tiên của các vua, chúa lại hàm chứa thêm những vấn đề rộng lớn hơn, bởi vua là Thiên Tử, việc của vua là trách nhiệm của muôn dân, do vậy, khi vua, chúa tổ chức tế lễ tổ tiên thì được xem như một “Quốc Lễ”. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi chép khá cụ thể ngay sau khi lên ngôi thì vua Lê Thái Tổ đã cho xây dựng Điện Lam Kinh làm nơi thờ Tiên Tổ, theo lệ hàng năm mỗi kỳ đầu xuân các vua Lê sơ đều thực hành nghiêm túc việc về tổ chức nghi lễ thờ cúng ở điện Lam Kinh. Điểm cần lưu ý là việc tranh luận giữa Nguyễn Trãi và Lương Đăng vốn là hai quan văn đầu triều về Lễ – Nhạc quốc triều, trong đó Lương Đăng trình vua Lê Thái Tông rằng: Lễ Nhạc không nên dùng các trò hát múarí ren, hát chèo vì đó là dâm nhạc5. Vua Lê Thái Tông nghe theo cho Lương Đăng chủ trì biên soạn Lễ Nhạc. Các trò diễn được đưa vào các kỳ bái yết ở Lam Kinh là các vũ nhạc “hân ca công trạng như trò múa nhạc bình Ngô, diễn cảnh thịnh trị thái bình như Chư hầu lai triều, vũ nhạc oai hùng như Trống đồng ra trận…”. Tuy nhiên, năm Thái Hòa 6 (1448), khi vua Lê Nhân Tông xa giá đến bái yết Sơn lăng thì dân chúng nô nức kéo nhau ra trước xa giá mà chúc tụng, hân hoan ca hát, diễn các trò hát múa rí ren, trai gái vòng quanh hát múa chồng chân, xếp tay, làm hình kết nụ, kết hoa… các quan Đồng Hanh Phát tâu với Thái úy Trịnh Khả cho rằng cần cấm các trò dâm nhạc này6… Các trò diễn dân gian như hát chèo, rí ren, trồng cây hoa, mẹ đĩ bợm… vẫn tồn tại như một tục hội dân gian ở các làng quê, thậm chí làng Xuân Phả ngay sát với Lam Kinh là nơi lưu tồn các trò diễn xướng dân gian đó cho đến tận ngay nay.

Vấn đề đặt ra là các điển chế quy định về Nghi lễ ở thời Lê Trịnh là như thế nào, tư liệu lịch sử về việc các chúa Trịnh về bái yết tổ tiên ở Biện Thượng ra sao? vẫn chưa được làm sáng rõ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (ghi chép từ thời Lạc Long Quân đến năm 1675) đều không thấy có phần ghi chép công việc này đối với chúa Trịnh và các vua Lê Trung Hưng. Tuy nhiên, sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn lại ghi chép khá tỷ mỷ các thể thức, nghi thức, lễ tiết trong ở các đền – miếu thời Lê – Trịnh “Tháng 11, năm Đinh Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 1 (1767), Vương Thượng (chúa Trịnh Sâm) hạ lệnh định ra chế độ chép vào tự điển, vị thần hạng tối linh Thượng đẳng Thần được đội mũ phốc (cấm mũ hợp xí xung thiên) trang sức bằng vàng, Trung đẳng Thần quấn dây vàng, áo màu hồng, Thượng đẳng có hình hai rồng, Trung đẳng có hình một rồng, Hạ đẳng hình cá hóa rồng…7. Sách cũng chỉ dẫn thể thức Lễ nghi bên phủ chúa Trịnh và bên cung vua Lê có nhiều điểm khác nhau, đối với các quan hành lễ bên cung vua chỉ như là một nghi thức, còn ở phủ chúa mới tỏ rõ đạo quân thần thực dụng.

Lễ ở cung vua Lê “Các quan bộ Lễ và Ty Thừa trực đêm ở công đường, đợi tới gần canh 5 thì rước án biểu vào cung, trên che tàn vàng, cờ trống và nhạc đi trước, văn võ theo sau. Cục Thừa dụ khiêng án biểu đến cửa Đoan Môn, đặt ở phía đông sân rồng. Trống nghiêm hồi thứ nhất, các quan xếp hàng ngoài cửa Đoan Môn. Trống nghiêm lần thứ hai, viên Đạo lễ dẫn Tiết chế phủ vào điếm trước sân rồng ngồi chờ. Trống nghiêm hồi thứ ba, các viên chấp sự vào điện Vạn Thọ lạy 5 lạy 3 vái rồi rước vua ra điện Kinh Thiên. Viên Đạo lễ dẫn Tiết chế phủ vào đứng ở sân rồng. Sau khi quan Đại trí từ đọc lời cầu chúc của Tiết chế phủ và bách quan văn võ, quan Truyền chế đọc lời đáp của vua, các quan lạy tạ 4 lần. Nhạc tấu khúc Hưu minh, vua lên kiệu về cung, kết thúc buổi chầu”.

Lễ ở phủ chúa Trịnh “Viên Tư thiên giám chọn giờ tốt để chúa đi lễ Thái Miếu, Cung Miếu. Mùng 1 Tết, hiệu Thiên hùng bắn súng, hiệu Thị trung đánh trống, quân cấm vệ đứng hầu hoặc đi tuần xung quanh… Chúa lễ xong, phiên Binh ban thưởng tiền xuân cho quan tướng. Tiết chế phủ dẫn các quan xếp hàng tiến vào lạy mừng. Chúa ban yến, tiền thưởng xuân cho các quan từ nhất phẩm triều đình trở xuống và cho mọi người được dự yến”8.

Có thể nhận thấy, nghi thức thờ tổ tiên ở quê chỉ được thực hiện một cách nề nếp trong thời Lê sơ, càng về sau nhạt dần, các vua chúa thời Lê – Trịnh có xu hướng lập điện thờ vọng ở kinh, còn nhà thờ tổ ở quê thường được giao cho họ tộc, nhờ đó mà nhiều trò diễn dân gian được tùy tiện đưa vào trở thành các lễ hội dân gian của một vùng nhất định.

2. Vấn đề hình tượng, biểu tượng, vật linh của lễ hội Phủ Trịnh – Nghè Vẹt

Lễ nghi thờ cúng tổ tiên ở TK XVII – XVIII của các vua Lê, chúa Trịnh và đặc biệt sau này ở TK XIX – XX của các vua Nguyễn đã khác thời Lê sơ rất nhiều. Đó là các yếu tố kinh tế, thương mại, cũng như vị thế xã hội của tầng lớp vương hầu, quý tộc chi phối xã hội khá đậm nét. Các lăng mộ Quận Công thời kỳ này được chúa Trịnh khuyến khích, đôi khi nhà chúa ban tặng bia đá, tượng voi, ngựa, tượng chầu do thợ đá An Hoạch tạo tác như ở lăng Mãn Quận Công tại làng Nhồi, thành phố Thanh Hóa; lăng Lê Thời Hiến tại xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn (tỉnh Thanh Hóa); lăng Quận Công Nguyễn Hữu Dĩnh ở huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình… Những lăng mộ này đôi khi còn đồ sộ hơn lăng mộ vua Lê Trung Hưng và sánh ngang lăng mộ các chúa Trịnh đương thời. Đến thời Nguyễn thì điển chế được quy định chặt chẽ hơn, các quan lại cấm không được tạc tượng chầu ở lăng9. Vua Gia Long sau khi đăng quang đã về ngay quê hương xây khu lăng miếu Gia Miêu – Triệu Tường thờ tổ tiên vào năm 1803 tại xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, tại Kinh thành Huế nhà Nguyễn vẫn cho xây Thái Miếu thờ 9 vị Chúa khởi dựng và Thế Miếu thờ 10 vua Nguyễn. Chúa đầu triều nhà Nguyễn là Nguyễn Hoàng được dân miền Trung và Nam Bộ cung kính gọi là Chúa Tiên và sau này phối thờ vào chùa Thiên Mụ, mặt khác vua Gia Long trang trọng đặt thờ Chúa Tiên chính giữa cung Thái Miếu ở Kinh thành Huế.

Có thể, các chúa Trịnh trước đó đã thực hành tương tự: xây điện thờ Vương Mẫu ở quê và vẫn có điện thờ “vọng” tổ tiên ở Vương phủ tại Thăng Long? Nhiều nguồn sử liệu cho biết Vương phủ của chúa Trịnh rất nguy nga, đồ sộ, theo sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép: “Phủ chúa Trịnh (Vương phủ) được xây dựng từ năm 1592 đến năm 1749. Từ năm 1718, Trịnh Cương lại đặt thêm lục phủ (tương đương với lục bộ của bên vua là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) để thâu tóm quyền hành của lục bộ bên triều đình”. Theo sách Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác – một danh y người Hải Dương ở TK XVIII ghi: “Vòng quanh ước chừng một dặm, nơi nào cũng lâu đài, đình, gác, rèm châu, cửa ngọc, ánh nước mây lồng, suốt lối toàn hoa cỏ kỳ lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc ngang lạch nước quanh co, lại có lan can toàn bằng đá màu. Tôi vừa đi vừa ngắm, thực chẳng khác gì cõi tiên vậy… Mỗi năm đến tết Trung thu, từ trước mấy tháng, chúa phát gấm trong cung ra để làm hàng trăm, hàng nghìn cái đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Đến ngày chúa ngự ra chơi Bắc cung, có cái ao gọi là Long Trì rộng nửa dặm…10. Cũng tại sách này, danh y Lê Hữu Trác cho biết nhiều lễ hội trong cung phủ khi diễn có nhiều nghi thức xa hoa, tuy về cơ bản vẫn bảo lưu các hình thức âm nhạc, chế định màu sắc áo mũ cho các quan, nghi thức hành lễ đã được chế định từ thời Lê sơ, nay được biên cải thêm thắt, trong đó có các trò Tế cờ, Thi Bắc cử (múa đao), quân binh chạy xếp chữ, bày trận, bình thơ, đàn sáo được Chúa cho diễn nhiều trò vui.

Vấn đề xác định hình tượng, biểu tượng, vật linh của một lễ hội từ các cứ liệu lịch sử và lưu truyền dân gian là rất cần thiết. Sự hình thành một lễ hội có thể là một quá trình rất dài, gắn liền với một sự tích đặc biệt có tính thiêng liêng mà cộng đồng chấp nhận, vun đắp, gìn giữ. Những lễ hội liên quan đến các nhân vật lịch sử thường gắn với một hay vài di tích cụ thể đã tồn tại hàng trăm năm và thu hút cộng đồng với một niềm tin thiêng liêng nào đó. Lễ hội đền Bà Triệu, lễ hội Đức Thánh Trần, lễ hội đền vua Đinh… là những lễ hội có hàng mấy trăm năm lịch sử, cộng đồng xã hội ghi nhận, trong khi đó những lễ hội như Lam Kinh có thể xem là một điển hình, do di tích này ở tầm cỡ là “di tích đặc biệt cấp quốc gia”. Lại được đầu tư của nhà nước trong trùng tu phục dựng và dàn dựng, tổ chức lễ hội vào ngày giỗ kỵ của vua Lê Thái Tổ (21 – 22/8 AL) trong hàng chục năm nay. Tuy nhiên, một lễ hội muốn trở thành một giá trị sống lâu dài trong cộng đồng cần được kiên trì xây dựng để có thể được cộng đồng tự nguyện tiếp nhận và bảo tồn. Trong trường hợp này, vai trò các dòng họ liên quan phải đảm nhận sau khi nhà nước đã đầu tư mang tính hỗ trợ ban đầu. Từ trách nhiệm bảo quản, tu bổ và phát huy lễ hội của một dòng họ, địa phương, cho đến khi tạo ra sức lan tỏa rộng lớn trong cộng đồng, một vùng là một quá trình; biên độ ảnh hưởng đến đâu là một quá trình tùy thuộc vào giá trị văn hóa, tâm linh và sức lan tỏa của lễ hội quyết định.

Phủ Trịnh được xác định gắn với lễ hội thờ Thế Tổ Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm, người có công phò giúp nhà Lê Trung Hưng chống lại quân Mạc, xây dựng một thể chế lưỡng đầu cai trị gần 250 năm. Bên cạnh Phủ Trịnh là Nghè Vẹt nơi thờ Thân Mẫu ông, đây là hai di tích có liên hệ đặc biệt trong thiết kế lễ hội. Ngày lễ được chọn là ngày 18 tháng 2 âm lịch (ngày mất của Thái Vương Trịnh Kiểm). Những giá trị thiêng có thể xem xét khi xây dựng hình tượng và biểu tượng thiêng của lễ hội là: đức độ và công trạng của Chủ Thần. Phan Huy Chú khi thuật lại công lao của vua Lê Trang Tông trong việc trung hưng triều Lê đã ca ngợi gián tiếp Trịnh Kiểm và xem ông mới là người trực tiếp lập công trạng: “Về sau được Dực quận công Trịnh Kiểm giúp đỡ, vua hết lòng tin theo, cất người hiền, dùng kẻ tài, chăm dân, thương lính, sửa sang pháp lệnh, trong cõi rất yên. Rồi đem quân tiến đánh lấy được cả đất cát châu Ái, châu Hoan, dựng hành điện ở sách Vạn Lại. Các hào kiệt ở xa đều theo về cả. Cơ nghiệp trung hưng, thực là bắt đầu từ đây”11. Sách Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục viết: “Tổ tiên của Trịnh Kiểm là Trịnh Xứng sinh cao tổ là Trịnh Kỷ, tằng tổ là Trịnh Liễu; nhà nghèo, ham học, tích đức, làm việc nghĩa. Họ hàng khen hiếu, làng xóm khen đễ… sau rời đến làng Biện Thượng (nay là Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng) làm điều thiện không mỏi, nhân hậu có thừa”12. Công nghiệp, tài đức của chúa Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm khá tường minh, tuy nhiên, thế sự hẳn không dễ dàng như vậy trước nhân gian, phần nhiều trắc ẩn thuộc ở các đời chúa kế ngôi sau đó. Lịch sử Việt Nam ở TK XVI – XVIII thật éo le là vậy (!), nên con người xuất chúng như Trịnh Kiểm thực sự là một nhân cách phi thường. Nhân cách đó chi phối thái độ của 11 đời chúa Trịnh sau này và ảnh hưởng đến cả các chúa Nguyễn ở đàng trong với một sự kiên định phò tá vua Lê “Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản” đúng như lời phán của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Việc thi vị hóa, cường điệu làm cho các nhân vật “khổng lồ” trở nên có sức thu hút đặc biệt đó là đặc điểm của sử liệu dân gian Việt Nam thời cổ trung đại. Tuy nhiên với các nhân vật anh hùng lịch sử như Lê Lợi, Nguyễn Hoàng và Trịnh Kiểm đã thuộc thời trung đại và những câu chuyện “gươm báu, ấn thiêng” là Trời ban tặng để Lê Thái Tổ thay trời hành đạo; chuyện bà Thiên Mụ chỉ đất thiêng cho Nguyễn Hoàng lập kinh đô nhà Nguyễn; chuyện “rồng đen ở chân núi Hùng Lĩnh và câu truyền tụng: Mạch tòng Hùng Lĩnh trung linh khí, Thế xuất công hầu tráng đế vương” đối với Thái Vương Trịnh Kiểm; chuyện đàn chim Vẹt che thân xác bảo vệ thân mẫu Trịnh Kiểm khi bị sát hại… đó là những nguồn sử liệu đan xen huyền thoại vô cùng quý giá để sáng tạo nên các hình tượng, biểu tượng, linh vật cho lễ hội.

3. Một vài tản mạn thay cho lời kết

Thanh Hóa là vùng đất có vai trò quan trọng trong quá trình lịch sử Việt Nam, đặc biệt ở thời kỳ trung đại. Từ TK XV đến TK XVIII, Thanh Hóa xuất hiện các đời vua – chúa kế vị nhau liên tục trên 350 năm kể từ nhà Lê sơ, nhà Lê – Trịnh, nhà Nguyễn. Các di tích gắn với các vua, chúa đầu triều ở ba thời kỳ này là Lê Thái Tổ, Lê Trang Tông và Thái Vương Trịnh Kiểm, Chúa Tiên Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng. Lăng mộ của các nhân vật phi thường này chủ yếu trên đất Thanh Hóa là lăng Lê Thái Tổ ở Lam Kinh và lăng Thái Vương Trịnh Kiểm ở Thanh Hóa (tuy nhiên hiện nay vẫn chưa xác định cụ thể vị trí lăng mộ này); Điện thờ hiện có Khu Lam Kinh ở huyện Thọ Xuân; Phủ Trịnh và Nghè Vẹt ở xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc; lăng miếu Gia Miêu – Triệu Tường ở xã Hà Long, huyện Hà Trung. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phục dựng lễ hội ở các di tích này có nhiều vấn đề khác nhau, một vài tản mạn xin nêu ra luận bàn:

Thứ nhất: Cần nhận thấy điểm khác nhau là mỗi di tích trên được sự nhìn nhận của cộng đồng và sự đầu tư của nhà nước ở các mức độ khác nhau. Sự khác nhau còn ở mức độ lan tỏa giá trị văn hóa tinh thần của mỗi di tích trong cộng đồng (trước hết là trong các dòng họ Lê, Trịnh, Nguyễn). Nếu như dòng họ Nguyễn ngoài lễ hội gắn với khu lăng miếu Gia Miêu – Triệu Tường thì hệ thống lăng miếu, đền thờ, chùa ở cố đô Huế mấy trăm năm đã gắn với Chúa Nguyễn và được thời gian thử thách. Khu Lam Kinh đã được nhà nước xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và đầu tư phục dựng lăng, miếu và đầu tư tổ chức phục dựng lễ hội từ gần 20 năm nay. Do vậy,lễ hội Phủ Trịnh và lễ hội Gia Miêu – Triệu Tường là hai lễ hội có một hoàn cảnh khác biệt, cần phải được nghiên cứu sâu hơn nhằm tìm ra được một hướng đi hợp lý và bền vững.

Thứ hai: Lễ hội Phủ Trịnh cần xác định được tính liên thông về hình thức văn hóa tín ngưỡng thờ tổ tiên truyền thống gắn với văn hóa nghi lễ cung đình ở TK XVII – XVIII. Nhiều hình thức nghi lễ, trò diễn thời Lê sơ vẫn được bảo lưu ở TK XVII – XVIII cần được xem xét.

Thứ ba: Cần làm rõ sắc thái văn hóa ở lễ hội Phủ Trịnh khác với lễ hội Lam Kinh, lễ hội nhà Nguyễn ở Gia Miêu – Triệu Tường là những gì? vì đây là văn hóa của TK XVII – XVIII, còn lễ hội Gia Miêu – Triệu Tường thuộc TK XIX – XX. Lễ hội Phủ Trịnh cần thể hiện sự chọn lọc nhạc lễ, nghi thức hành lễ, trò diễn đặc trưng của xã hội Việt Nam TK XVII- XVIII, đặc biệt ở TK XVIII mà các chúa Trịnh Căn, Trịnh Giang, Trịnh Tùng đã từng biên soạn. Đó là nhạc lễ, y phục của Chúa, y phục của quan chầu, nghi lễ thiết triều bên cung Vua, bên phủ Chúa… cần chọn lọc để đưa vào lễ hội.

Thứ tư: Màu sắc, linh vật, đồ thờ, trò diễn ở lễ hội Phủ Trịnh phải phản ánh tinh thần văn hóa dân gian đương thời và lễ nghi của phủ Chúa. Trong đó, phải thể hiện những diện
mạo mới của thời kỳ kinh tế nông nghiệp và thương mại bước đầu phát triển, kỹ thuật và văn hóa Tây phương đã du nhập ở một mức độ nhất định. Màu sắc ở lễ hội Phủ Trịnh cần chú trọng đến màu chủ đạo là màu tía, đây là màu mang tính biểu tượng trong y phục các Chúa Trịnh tự chọn để phân định màu vàng của riêng vua 13.

Thứ năm: Do không gian Phủ Trịnh hiện nay khá khiêm tốn, cần lựa chọn các hình thức nghi lễ, âm nhạc, trò diễn phù hợp và có thể từng bước bàn giao kỹ thuật cho nhân dân sở tại, cộng đồng họ Trịnh ở địa phương tự vận hành sau này

___________
2 Trần Trọng Kim (2012), Nho giáo, NXB Thời đại, tr 132 – 133.

3Quốc triều hình luật, chương 6, điền sản, điều 46 – 49 về Hương hỏa.

Luật Gia Long, điều 76, điều 85 và điều 87 về Kế thừa hương hỏa.

Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Hồng Bàng, 2012, tr 574.

Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Hồng Bàng, 2012, tr 593.

Kiến văn tiểu lục, NXB Trẻ, 2013, tr 82.

8 Lịch triều hiến chương loại chí, T2, NXB Giáo dục, 2007.

9 Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ.

10 Thượng Kinh ký sự, NXB Hồng Bàng, 2012, tr 57.

11 Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tập 3, tr 18.

12 Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục, Q2,tr 82.

13 Cương mục, chính biên quyển 35.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, T2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[2]. Lê Quý Đôn (2013), Kiến văn tiểu lục, NXB Trẻ, Hà Nội.

[3]. Trần Trọng Kim (2012), Nho giáo, NXB Thời đại, Hà Nội.

[4]. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, tập III, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[5]. Lê Hữu Trác (2012), Thượng Kinh ký sự, NXB Hồng Bàng, Gia Lai.

 

Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ LÊ VĂN TẠO1
(Nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa)

There are no comments yet

Tin khác đã đăng