CHI HỌ TRỊNH QUANG Ở LÀNG THANH LƯƠNG, XÃ PHÙ LƯU, HUYỆN CAN LỘC, HÀ TĨNH
Gia phả của chi họ Trịnh Quang lần đầu tiên được ông Trịnh Quang Thiện , hậu duệ đời thứ 4, soạn thảo vào năm Ất Sửu (1865) bằng chữ Hán.
Sau đó, Gia phả được ông Trịnh Quang Lâm ( hậu duệ đời thứ 6 ) bổ túc vào năm Ất Sửu ( 1924 ) và ông Trịnh Quang Thao chép lại vào năm 1930; Năm Bính Tuất ( 1946 ) ông Trịnh Quang Lâm dịch ra quốc ngữ và ông Trịnh Quang Cảnh chép lại ( lấn thứ 2 ). Năm 1960, hai ông Trịnh Quang Thao và Trịnh Quang Trác , hậu duệ đời thứ 7 tiếp tục bổ túc và hiệu chỉnh gia phả ( lần thứ 3 ). Năm 1983, Hội đồng gia tộc cử ra một Ban gồm 6 người bổ túc gia phả ( lần thứ 4 ) đúng vào dịp trùng tu nhà thờ họ. Năm 2005, Hội đồng gia tộc cử ra một Ban gồm 5 người cập nhật gia phả ( lần thứ 5 ).
Nhà thờ họ Trịnh Quang ở Thanh Lương được xây dựng vào năm Tân Dậu ( 1921 ) . Năm 1968, nhà thờ họ bị bom Mỹ phá hỏng. Năm 1982 bà con thân tộc và con cháu đóng góp tôn tạo lại chính điện . Năm 2001, nhà thờ họ tiếp tục được tu sửa và tôn tạo lần thứ 2. Năm 2002, thân tộc, con cháu lại đóng góp xây dựng mới nhà Bái đường và tường bao quanh.
Nhà thờ họ Trịnh Quang có bức Hoành phi đại tự ghi bốn chữ “ PHÚC LỘC LAI THÀNH”. Các bậc cao niên trong họ giải thích rằng , theo các bậc tiền bối di huấn lại : Phúc là Phúc Kiến ( có thể là Phúc Châu ), quê hương của ngài Thủy tổ của gia tộc Trịnh Quang ở Thanh Lương; Lộc là Can Lộc, quê hương của bà Thủy tổ; Lai là hợp lại; Thành là tạo nên, tạo thành. Bức hoành phi chỉ ra rằng Thủy tổ người Phúc Kiến ( hoặc Phúc Châu tương ứng với Can Lộc ) cùng Tổ mẫu người Can Lộc giao duyên tạo thành dòng họ Trịnh Quang ở Thanh Lương.
Gia phả họ Trịnh Quang ở Thanh Lương cho biết : Tiên tổ họ Trịnh Quang là Trịnh Hiếu Thục , quê gốc ở xã Cao Cái, huyện Mân, phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến. Thủy tổ là Trịnh Văn Liên, tự Hiếu Thi, sang Việt Nam sinh sống, ( khoảng năm 1775 ) kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Lăng, con gái ngài Nguyễn Pháp và bà Phạm Thị Bàng người làng Thanh Lương. Sau đó hai vợ chồng đến sinh sống ở làng Nghi Lễ, xã Diên Lãm, huyện Nam Đàn, phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, làm nghề thuốc nên cơ nghiệp. Thủy tổ sinh được một con trai tên là Dên, thường gọi Trịnh Quang Nghĩa. Vợ thứ hai của Thủy tổ là người Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sinh được 3 trai và 3 gái.
Cụ thủy tổ Trịnh Văn Liên sau khi tạ thế được vợ cả và con trưởng là Trịnh Quang Nghĩa đưa về an táng tại Thanh Lương . Chi họ Trịnh Quang sinh cơ lập nghiệp tại Thanh Lương đến nay được 11 đời. Gia tộc Trịnh Quang có nhiều hậu duệ học hành đỗ đạt ( có 2 vị đỗ cử nhân làm quan dưới thời nhà Nguyễn ) và làm nghề thuốc.
Riêng 3 chi họ Trịnh ( con bà hai của ngài Thủy tổ ) ở Nam Đàn, Nghệ An đến nay vẫn chưa tìm thấy và chưa kết nối gia phả được. Thân tộc Trịnh Quang ở Thanh Lương có nguyện vọng tìm lại họ hàng và kết giao thân tộc.
Bài và ãnh : Trịnh Thường Dân
Tin khác đã đăng
- Lời kêu gọi khắc phục hậu quả bão lụt 17/09/2024
- Lễ khánh thành nhà thờ Trịnh tộc Làng An Chánh, Đại Tân, Đại Lộc, Quảng Nam 29/07/2024
- Kỷ niệm ngày Giỗ Thành Tổ Triết Vương Trịnh Tùng 20/07/2024
- Lễ Giỗ Bình An Vương Trịnh Tùng ngày 20/6 Giáp Thìn tại Phủ Thái Kiều – Vương Phủ Trịnh 19/07/2024
- Trịnh Tuệ: Vị trạng nguyên cuối cùng trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến 01/07/2024
One comment