Chính cung và đồ sứ Nội phủ thị trung thời Chúa Trịnh



Vương phủ của chúa Trịnh nằm ở phía nam thành Thăng Long, gần hồ Hoàn Kiếm. Trong vương phủ của chúa Trịnh, Chính cung gồm 3 quần thể kiến trúc được giới hạn trong 3 vòng thành riêng biệt. Mỗi quần thể cung điện đảm nhiệm một chức năng riêng, phục vụ các nhu cầu: cai trị quốc gia, thờ cúng tổ tiên và ăn ở, nghỉ ngơi của các chúa Trịnh

Kỳ 1: Chính cung trong vương phủ của chúa Trịnh và những món đồ sứ Nội phủ thị trung đầu tiên

Chính cung trong phủ Chúa

Quần thể kiến trúc thứ nhất của Chính cung là Phủ liêu, nơi chúa cai trị quốc gia và hội họp các quan. Cửa Tuyên Vũ là cửa chính vào Chính cung. Sau cửa Tuyên Vũ là một cái sân rộng, rồi đến điện Trung Hòa, là nơi chúa làm việc. Hai bên điện Trung Hòa có hai nhà Tả Xuyên và Hữu Xuyên là nơi các quan chờ yết kiến chúa Trịnh.1 Kế đó là nhà Nghị Sự, nơi các quan hội họp. Ngoài ra, trong vòng thành này còn có nhiều công trình kiến trúc khác như cung Quyển Bồng2, điếm Tiểu Bút, gác Kỳ Lân…

Quần thể kiến trúc thứ hai là nơi thờ cúng liệt tổ liệt tông của họ Trịnh, nằm ở phía tả Phủ liêu. Trong đó có Chính cung miếu là nơi thờ các chúa, Đông miếu thờ hai vị Trịnh Vĩnh và Trịnh Bính, ông nội và cha của chúa Trịnh Cương, vì không làm chúa nên không được thờ trong Chính Cung miếu, và Trạch các.

Quần thể kiến trúc thứ ba là Tử cung, nơi ở của chúa, nằm ngay sau Phủ liêu. Kính Thiên Môn là cửa chính dẫn vào khu vực này và dẫn đến Thâm cung.

Đồ sứ Nội phủ thị trung thời chúa Trịnh

Để phục vụ cho các nhu cầu hàng ngày ở trong Chính cung, chúa Trịnh cho đặt làm tại Trung Hoa một loạt đồ sứ mang hiệu đề Nội phủ thị trung và Khánh xuân thị tả. Trong đó, đồ sứ Nội phủ thị trung có 3 kiểu thức trang trí. Kiểu trang trí thứ nhất thường thấy hội họa Trung Hoa và Việt Nam xưa, chuyên dành cho vua chúa, với các đồ án như: long triều thọ (rồng chầu chữ Thọ), lưỡng long triều nhật (hai rồng chầu mặt trời). Kiểu trang trí này được sử dụng vào các đời chúa: Trịnh Cương (1709-1729), Trịnh Giang (1729-1740) và Trịnh Sâm (1767-1782). Kiểu trang trí thứ hai chủ yếu được vẽ trên đồ sứ đời Trịnh Sâm. Do thời kỳ này trong phủ chúa đã có nhiều đồ sứ vẽ đề tài lưỡng long, nên Tĩnh Đô vương đã lựa chọn các đề tài phong cảnh tự nhiên hay những cảnh tượng thường thấy trong đời sống hàng ngày để vẽ lên đồ sứ, như các đồ án: chim dưới cành mộc lan, ba phụ nữ trong vườn. Kiểu thức trang trí thứ ba là những đồ án mây hóa rồng, mang đậm tính cách dân gian Việt Nam.

Đồ sứ Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Cương

Theo điển chế Trung Hoa, từ đời Hán Cao Tổ, con rồng đã được chọn là biểu tượng của nhà vua và phải được thể hiện đầy đủ các chi tiết như có một cặp sừng ở trên đầu và chân có 5 móng. Thái tử cũng được sử dụng hình ảnh con rồng để làm biểu trưng, nhưng con rồng của thái tử chỉ có 4 móng. Các thành viên khác trong hoàng tộc và quan lại không được phép sử dụng hình ảnh con rồng là biểu tượng cho mình. Thay vào đó, họ dùng hình ảnh con giao hay con mãng, là những hóa thân bậc thấp của rồng.

Ở Việt Nam, dưới thời Hậu Lê, rồng được trang trí trên những món đồ sứ dành riêng cho vua Lê và và chúa Trịnh. Theo Phan Huy Chú, tuy chúa Trịnh Cương có sử dụng kiệu rồng, lọng hoa, quạt và đồ sứ vẽ rồng, nhưng đến năm 1721 chúa vẫn không chấp nhận mặc áo màu vàng khi triều hội. Chúa bảo: “Ta từ khi giữ nghiệp nhà chúa, giúp đỡ nhà vua, vẫn để bụng tôn kính, màu vàng là phục sắc của vua, phải để suy tôn vua, cho hợp với lễ ý”.4 Năm 1724, chúa cũng từ chối tổ chức lễ Nam Giao với danh nghĩa của mình. Thái độ của An Đô vương chứng tỏ đến thời điểm này, chúa Trịnh vẫn tuân thủ phép tắc và giữ sự tôn trọng đối với vua Lê.

Để trang trí trên đồ sứ Nội phủ thị trung, chúa Trịnh Cương cho vẽ đồ án long triều thọ, vẽ con rồng 4 móng, từ dưới biển nổi lên trời, tạo ra những xoáy nước. Chữ Thọ viết theo lối chữ triện tròn, có một phần ẩn khuất trong đám mây. Kiểu vẽ này phỏng theo hội họa cổ điển Trung Hoa, với các sắc điệu men lam đậm nhạt khác nhau và những đường viền nhẹ bao quanh một số họa tiết. Việc sử dụng màu lam như thứ màu nước để trang trí trên đồ sứ là một đặc trưng của đồ sứ Trung Hoa từ cuối thời Minh (1308-1644) cho đến đời Khang Hy (1662-1722) thời Thanh. Còn lối trang trí bằng đường viền là một đặc điểm của đồ sứ đời Khang Hy. Nghệ nhân trang trí đồ sứ đã vẽ nên một bức tranh thủy mặc rất đẹp và khéo léo: sắc màu lam nổi bật trên nền sứ trắng phau một cách tinh tế và các họa tiết trang trí được thể hiện rất sống động.

Khác với truyền thống Trung Hoa, những nghệ nhân Việt khi thực hiện phác họa cho món đồ sứ ký kiểu đã không chọn đồ án long triều nhật mà thay bằng long triều thọ nhằm ám chỉ một truyền thuyết của Việt Nam có liên quan đến Đinh Tiên Hoàng. Chúa Trịnh Cương chọn lựa đồ án trang trí này để tỏ lòng kính trọng đối với tổ tiên của ông là Trịnh Kiểm, vốn là một nông dân nghèo, từng phải đi ăn trộm để nuôi mẹ mình. Nhưng nhờ vào sức mạnh và lòng can đảm, Trịnh Kiểm đã đưa họ Trịnh đến tột đỉnh của vinh quang. Ngoài ra, hình ảnh cây tre và cành dâu được thể hiện ở mặt sau chiếc đĩa tượng trưng cho lòng hiếu thảo.

Đồ sứ Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Giang

Trịnh Giang là vị chúa Trịnh đầu tiên có ý định truất phế ngôi vua của nhà Lê. Tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ có ghi: “Đến khi Trịnh Thuận Vương nối ngôi, mới đặt ra 6 phiên: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, cướp mất cả quyền quan lục bộ, lấy chức trưởng thự tham bồi làm quan chính phủ đại thần. Từ đấy chốn triều đường vua Lê chỉ là hư vị. Các quan vào tâu chúa Trịnh thì đổi chữ ‘ngu’ xưng là ‘thần’. Chúa Trịnh ra thân chính ở phủ đường thì gọi là ‘thị triều’. (…) Còn lễ nhà chúa vào triều bái vua Lê thì bỏ hẳn không hỏi đến nữa. (…) Còn các việc khác do nhà chúa truyền ra thì xưng là ‘chỉ truyền’ hay là ‘chỉ dụ’, và thường xưng là ‘ngự’, là ‘thánh’, cũng không khác gì trong nội điện vua Lê”.5

Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục,6 chúa phái sứ bộ do Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hán cầm đầu, giả vờ đi sang Trung Hoa cầu phong. Sau khi về thì tuyên bố rằng nhà Thanh đã phong cho Uy Đô vương Trịnh Giang tước An Nam thượng vương.

Trên đồ sứ Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Giang có một biến thể của kiểu thức trang trí trên đĩa với lối vẽ đơn giản hơn: con rồng 4 móng trải mình trên đám mây, hút nước biển, tạo ra cơn lốc xoáy và các làn sóng. Giữa lòng đĩa có hình chữ Thọ hình tròn theo thể chữ triện. Đồ án trang trí này được thể hiện trong lòng đĩa nhưng đuôi rồng cùng một đám mây và hoa văn sóng nước được vẽ lan sang mặt ngoài của đĩa. Giữa 2 họa tiết này, có 1 hoặc 2 dấu triện vuông. Trong khi hình tượng con rồng trong đồ án này được thể hiện khá ngây ngô, thì toàn bộ hình vẽ lại được chăm chút tỉ mỉ như một bức tranh.

Cách vẽ hoa văn lan từ mặt ngoài vào trong lòng hiện vật được thực hiện ở Trung Hoa dưới triều Ung Chính (1728-1735) trên dòng đồ sứ Nianyao (Niên diêu). Trên đồ sứ Trung Hoa, kỹ thuật này thường được dùng để vẽ một cành hoa mẫu đơn, vì thế nên lối vẽ này được gọi là guozhihua (quá chi hoa). Tuy nhiên, các nghệ nhân gốm sứ Trung Hoa ít khi dùng kỹ thuật này khi thể hiện hình tượng con rồng, ngoại trừ một số lò gốm sứ ở Nam Trung Hoa.

Khi kỹ thuật này du nhập vào Việt Nam, chúa Trịnh Giang là người tiên phong chấp nhận kiểu vẽ này và cho phép thể hiện hình ảnh con rồng 5 móng, vốn chỉ dành cho nhà vua, mà phải là người tinh ý mới nhận ra. Một chiếc đĩa Nội phủ thị trung khác vẽ 2 con rồng vươn từ thành ngoài vào trong lòng đĩa cùng chầu hạt châu được vẽ ở chính giữa lòng đĩa. Bố cục đồ án rất đăng đối: đầu 2 con rồng cũng như các chòm râu dài và cong của chúng đối diện nhau qua đường kính của đĩa và có cùng khoảng cách với hạt châu. Bố cục họa tiết khá đơn giản, không có nhiều mây bao phủ như nhiều đồ án rồng mây khác.

Đồ án lưỡng long triều nhật xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1470 trên bia Thủy Lai, trở nên thịnh hành vào thời Mạc và thời hậu Lê. Song cách thể hiện đồ án lưỡng long triều nhật trên đồ sứ ký kiểu thời chúa Trịnh có những nét riêng biệt. Một trong những điểm biến thể của đồ án này là cách thể hiện đuôi rồng hình đĩa nhọn hoắt với 1 chòm lông. Ở Trung Hoa, kiểu đuôi rồng này rất hiếm gặp, chỉ thấy trên những hình vẽ thủy long (rồng nước), còn gọi là con ly. Con rồng nước ít khi được thể hiện trên các đồ sứ ngự dụng của hoàng đế Trung Hoa. Song ở Việt Nam, thủy long là biểu tượng của sức mạnh. Chúa Trịnh Giang chọn đồ án này để gợi mối liên hệ với các vị vua đầu tiên của Việt Nam. Tương truyền, các vị vua đời Hồng Bàng vốn sinh sống trong cung điện dưới biển.

Kiểu thức trang trí này về sau được tái hiện trên đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn nhưng không sử dụng kỹ thuật guozheng trong bố cục như đồ sứ ký kiểu thời Lê – Trịnh

 Kỳ 2: Đồ sứ Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Sâm

Tĩnh Đô vương, theo phong tục, cũng đặt đồ sứ Nội phủ thị trung trang trí đồ án lưỡng long triều nhật. Hình ảnh con rồng 5 móng trên đồ sứ Nội phủ thị trung được thể hiện toàn vẹn ở trong và ngoài đĩa, chỉ có một chi tiết để phân biệt rằng đó không phải là con rồng của vua: con rồng này chỉ được vẽ 1 sừng, thay vì 2 sừng như con rồng của nhà vua. Ngoài ra còn có 2 đặc điểm đáng chú ý

khác của con rồng thời Trịnh. Đó là tính cách hiền lành và bố cục đối xứng của 2 con rồng với 2 chòm râu ôm lấy biểu tượng mặt trời ở giữa. Lối vẽ khác thường này còn được thể hiện ở sự đối lập ở 2 đuôi rồng: một đuôi nhọn hoắt, trông rất hung hăng, đuôi kia uyển chuyển, mềm mại. Kiểu vẽ đuôi rồng đối lập trong cùng một đồ án trang trí như thế này là sáng tạo của nghệ nhân Việt Nam đời Cảnh Hưng và được thể hiện trên đồ gốm Bát Tràng như trên một số cặp chóe.2 Lần đầu tiên trên đồ sứ ký kiểu thời chúa Trịnh, họa sĩ sao chép cách vẽ 5 móng rồng xòe ra thành hình tròn theo kiểu Trung Hoa. Đồ án này, về sau còn được chép lại trên đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn với một vài chi tiết thay đổi.

Một cái ống nguyên trong bộ sưu tập Vương Hồng Sển, bụng thon, miệng loe, phỏng theo kiểu dáng Trung Hoa thịnh hành từ đời Thiên Khải (1622-1644) đến đầu đời Khang Hy. Ống này dùng trong nhà quan lại, đặt trên bàn, để đựng các đồ vật có tính biểu tượng như cây ngọc như ý, lông công, bút lông, cuốn thư, cuốn tranh, phất trần, quạt xếp… Giới nho sĩ thì dùng để cắm tranh, vì thế nên tùy theo kích thước mà gọi là ống cắm bút hay ống cắm tranh.

Trong dòng đồ sứ ký kiểu thời chúa Trịnh, kiểu ống này thường được trang trí các đồ án long lân triều thọ (hiệu đề Nội phủ thị trung) hay long phụng triều nhật (hiệu đề Nội phủ thị hữu) và song phụng tề phi (hiệu đề Nội phủ thị đoài). Do sự hiện diện của hiệu đề Nội phủ thị đoài nên chúng ta có thể khẳng định là các ống cắm bút (hay ống cắm tranh này) được đặt làm vào đời Trịnh Sâm. Nhưng một điều khiến ta nghi ngờ là trên chiếc ống Nội phủ thị hữu ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế vẽ con rồng với 1 sừng duy nhất xuất hiện phía sau trán. Kiểu rồng như vậy chưa bao giờ xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam hay Trung Hoa. Trong dòng đồ sứ ký kiểu thời chúa Trịnh, ngoại trừ chiếc ống Nội phủ thị hữu nói trên, kiểu rồng 1 sừng này còn xuất hiện trên đĩa và bát đều có hiệu đề Nội phủ thị trung, nhưng căn cứ vào bút pháp của hiệu đề thì 2 món Nội phủ thị trung này đều được làm vào thời Nguyễn. Một điều đáng lưu ý là đồ án trang trí trên ống bút này là đồ án long lân triều thọ, trong khi loại đồ án này không bao giờ được sử dụng trên đồ sứ Nội phủ thị… mà chỉ dành riêng cho đồ sứ Khánh xuân thị tả và đó là những món đồ phục vụ cho nhu cầu tế tự, chứ không phải là đồ dùng sinh hoạt. Vì thế, chúng tôi nghi ngờ món đồ này không phải là đồ sứ ký kiểu chính hiệu thời Lê – Trịnh.

Theo thị hiếu thịnh hành từ đời Khang Hy đến đời Càn Long, chúa Trịnh Sâm đã cho trang trí trên đồ sứ Nội phủ thị trung những đồ án phong cảnh, động vật và nhân vật. Các đồ án trang trí này phỏng theo các tranh khắc in trong những quyển sách hội họa cổ điển hoặc tranh ảnh minh họa trong tiểu thuyết Trung Hoa lúc bấy giờ.

Trên chiếc đĩa4 có trong bộ sưu tập của Phạm Hy Tùng vẽ con chim đứng dưới cành mộc lan. Tính đặc sắc của đồ án trang trí này thể hiện ở bố cục phi đối xứng của nó. Đây là dấu hiệu cho thấy lối vẽ chịu ảnh hưởng từ trang trí trên đồ ko-sometsuke5 do Trung Hoa sản xuất theo yêu cầu của người Nhật dưới triều Thiên Khải (1621-1627). Tư thế con chim trên đĩa Nội phủ thị trung này sao từ bức tranh khắc minh họa bài thơ vịnh hoa mào gà, in lần đầu tiên vào năm 1621 trong quyển Cao bei hua xi bu (Thảo bắc hoa tây bộ). Bức tranh này được dùng làm mẫu cho các loại đĩa vẽ men ngũ sắc chế tác vào các đời vua Thiên Khải và Sùng Trinh (1627-1644) để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản (ảnh 2).

Trên đồ sứ ký kiểu của chúa Trịnh Sâm, con gà được thay bằng con chim và hoa mào gà được thay bằng hoa mộc lan. Theo Phạm Hy Tùng, con chim này là chim chuy, còn được gọi là phu phủ hoặc bột cưu. “Bởi trong Kinh Thi đức Khổng Tử có viết: ‘Phiên phiên giả chuy. Tái phi tái hạ. Tập vu bao hử. Vương sự mỹ cồ. Bất hoàng tương phụ’ và Chu Hy chú giải là ‘…việc của vua không thể không lo cẩn thận cho nên không còn rảnh rang phụng dưỡng cha già”.7 Nghệ nhân chọn vẽ chim bột cưu và nhánh hoa mộc lan8 để biểu tượng của một thời kỳ hòa bình và thịnh vượng mới sẽ đến vì hoa mộc lan nở vào đầu mùa xuân, còn chim cưu được coi là con chim báo niềm vui theo quan niệm Trung Hoa (cưu báo hỉ). Tuy nhiên, chúng tôi có một thắc mắc là chim cưu thường xuất hiện trong những thành ngữ không mấy tốt lành như: Cưu cư thước sào (chim cưu ở nhờ tổ chim thước) hay Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi (Kinh Thư: chim thước có tổ, chim cưu đến ở nhờ). Ý này có thể hiểu là chúa Trịnh Sâm (ngụ ý là chim cưu) muốn đoạt ngôi báu của nhà Lê (đoạt tổ chim thước). Như vậy tại sao Tĩnh Đô vương chấp nhận đồ án này trên những món đồ sứ Nội phủ thị trung do ông ký kiểu?

Có lẽ vì vậy nên Phạm Hy Tùng định niên đại của đĩa này vào khoảng đời Trịnh Tùng (1548-1623) và cho rằng đĩa này đặt làm tại Cảnh Đức Trấn. Nếu đúng như thế thì đĩa này chỉ có thể chế tác dưới triều Vạn Lịch (1580-1620) vì các vua nhà Minh kế nghiệp Vạn Lịch không tiếp tục duy trì ngự diêu ở Cảnh Đức Trấn để chế tác gốm sứ cho triều đình. Điều này khó xảy ra vì các vua nhà Minh không đời nào chấp nhận việc ngự diêu Cảnh Đức Trấn chế tạo đồ sứ cho vua Lê – chúa Trịnh của nước Nam vì họ không công nhận làm vua nước Nam là An Nam quốc vương mà chỉ sắc phong là An Nam đô thống ty đô thống sứ, ngang hàng với chức quan nhị phẩm của Trung Hoa. Mặc khác, trong giai đoạn thứ nhất, các chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Tráng đều phải lo đánh họ Mạc ở phía Bắc, chống họ Nguyễn ở phía Nam, nên mọi nguồn lực đều lo cho việc chiến tranh, còn các việc khác ít được quan tâm, cung điện cũng không mấy khi được sửa sang, huống chi việc cử người sang Trung Hoa đặt làm đồ sứ. Hơn nữa, đồ án trang trí hoa mộc lan là một trong đặc trưng tiêu biểu của gốm sứ đời Khang Hy sau này.

Trần Đức Anh Sơn biên tập và hiệu đính

There are no comments yet

Tin khác đã đăng