Họ Trịnh phục vụ tổ quốc suốt chiều dài hai nghìn năm lịch sử
Sự đóng góp của người họ Trịnh đã thể hiện ở các danh nhân là các tổ họ Trịnh sống và phục vụ đất nước từ thời An Dương Vương cho đến triều Đinh và Tiền Lê. Trươc Công Nguyên có tướng Trịnh Huân đã phò vua An Dương giữ nước và giúp dân khai phá lập trang Cái Chuôm. Đầu Công nguyên có “ông già họ Trịnh” ở làng Hổ Bái góp phần đuổi Tô Định, được Trưng Vương về làng tặng thưởng. Thời Bắc thuộc, có đại vương Trịnh Ra người hào mục có lòng nghĩa hiệp giúp dân được nhiều triều đại sắc phong, và được nhiều làng thờ cúng. Thời Đinh và Tiền Lê có Trịnh Tú là công thần “ tứ trụ triều đình”, là nhà ngoại giao và vị tướng trung nghĩa tiết liệt.
1. Trong nghìn năm lịch sử đầu
Sự đóng góp của người họ Trịnh đã thể hiện ở các danh nhân là các tổ họ Trịnh sống và phục vụ đất nước từ thời An Dương Vương cho đến triều Đinh và Tiền Lê. Trươc Công Nguyên có tướng Trịnh Huân đã phò vua An Dương giữ nước và giúp dân khai phá lập trang Cái Chuôm. Đầu Công nguyên có “ông già họ Trịnh” ở làng Hổ Bái góp phần đuổi Tô Định, được Trưng Vương về làng tặng thưởng. Thời Bắc thuộc, có đại vương Trịnh Ra người hào mục có lòng nghĩa hiệp giúp dân được nhiều triều đại sắc phong, và được nhiều làng thờ cúng. Thời Đinh và Tiền Lê có Trịnh Tú là công thần “ tứ trụ triều đình”, là nhà ngoại giao và vị tướng trung nghĩa tiết liệt.
2. Thời Lý, Trần. Hồ
Triều Lý rất sùng đạo Phật. Năm 1015 vua Lý Thái Tổ phong Trịnh Văn Tú làm thiền sư. Năm 1031, Trịnh Trí Không đứng ra tâu xin vua cho các đạo sĩ đăng ký là chính thức tu hành, được vua Lý Thái Tông chuẩn y.Năm 1232 Trịnh Phẫu thi đỗ hoàng giáp đời vua Trần Thái Tông. Trịnh Dỹ là môn khách của Trần Hưng Đạo. Trịnh Trọng Tử được vua Trần Anh Tông giao cho điều hành lễ nhạc trong cung. Năm 1278 Trịnh Đình Toản đi sứ nhà Nguyên thà chịu lưu đày đến chết không để nhục mệnh vua.
Năm 1278 Trịnh Xiển giữ ải khi quân Nguyên xâm lược. Theo Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn, họ Trịnh tổ tiên Trịnh Khả có công chống quân Nguyên Mông(không ghi rõ tên). Cuối Trần sang Hồ sư già họ Trịnh, tên chữ Bạch Thạch Sơn Tăng, chỉ mạch đất cho Lê Lợi táng hài cốt thân phụ.
3. Thời thuộc Minh và Lê Sơ
Điều đáng chú ý là trong một trăm năm này ( xấp xỉ thế kỷ XV, chưa có chúa Trịnh đã góp cứu nước và xây dựng nước. Làng Khê Tang có Trịnh Phác đỗ tiến sĩ. Dòng Hổ Bái có Trịnh Tử Khỉa chức xa kỵ ( quan võ). Hai đại công thần Bình Ngô khai quốc là Trịnh Khả, Trịnh khắc Phục mở ra hai dòng lừng lẫy và là trụ cột của triều Lê sơ. Như vậy dưói triều Lê sơ, cây họ Trịnh đã phát triển nhiều cành nở rộ hoa, với nhiều danh nhân lưu danh tên tuổi: Trịnh Khả, Trịnh Công Lộ, Trịnh Công Đán, Trịnh Công Ngô, Trịnh Khắc Phục, Trịnh Duy Thuân, Trịnh Duy Sản , Trịnh Đại, v.v.(sau vua Lê Thánh Tông có câu “ anh em họ Trịnh thảy đều quý hiếm”). Lại có nhiều người đỗ đạt: đỗ tiến sĩ có Trịnh Tuyển, đỗ bảng nhỡn có Trịnh Thiết Trưòng; đỗ hoàng giáp có Trịnh Kiển, Trịnh Quỳ, Trịnh Bá.
Sau đây là trích dẫn di bút của vua Lê Thánh Tông nói về công lao họ Trịnh triều Lê sơ. Một trong các thơ đề khi vua thăm đền thờ Trịnh Khả tại làng Kim Bôi( thôn Giang Đông, xã Vĩnh Hoà, tỉnh Thanh Hoá ngày nay)
Tay tả xoay trời tay hữu chống đất
Nhà thờ nguy nga càng thêm tôn quý
Công danh trọn đời vũ năng còn đây
Một nhà trung hiếu, tước ấn vẫn còn đây
Như lâu đài Giáng quận, miếu mạo Chu Bột
Gió mát nơi đình viện, cửa nhà họ Trịnh rộng mở
Bậc đống lương đã mở mang những điều tốt lành
Nối tiếp công hầu hết đời con đến đời cháu.
Câu đối:
Bốn phương đều cùng giống răng đen, ai là người
Không nhớ đến công dẹp giặc của Ông
Muôn dặm cùng phongtục tốt đẹp, ai là người
Không nghĩ đến công khôi phục nước Việt của Ông
Di bút vua Lê Thánh Tông, trích dịch
Tộc phả họ Trịnh làng Cự Đà( Hà Tây, 1982).
4. Thời Lê – Trịnh
Đỉnh cao phục vụ Tổ Quốc
Các thế kỷ XVI, XVII và XVIII là ba trăm năm phát triển đỉnh cao của họ Trịnh: Xuất hiện dòng chúa quản lý đất nước và đồng thời các dòng khác cũng phát triển tốt, đó là điều trước đây ít ai để ý, mà thường cho rằng chỉ có dòng chúa mà thôi. Dưới đây sẽ điểm lại sự đóng góp của họ Trịnh với Tổ quốc về bốn mặt chủ yếu là chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.
Về mặt chính trị (Đòi lại đất đai, tôn vinh quốc thể)
Nguyện vọng thiết tha ngàn đời của dân tộc ta là giữ được nền độc lập quốc gia. Vì vậy trách nhiệm nặng nề của người quản lý đất nước là giữ vững lãnh thổ, tôn vinh ngôi vua nước ta. Các chúa Trịnh đã hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chính trị hàng đầu đó.
Đòi lại mỏ đồng Tụ Long
Suốt 249 năm, nhà Trịnh quản lý đất nước, đã giữ vững lãnh thổ, Phương Bắc không dám xâm lựoc, hơn nữa ta còn đòi đất mất dưới các triều cũ. Chúa Trịnh Căn rồi chúa Trịnh Cương đã nhiều lần cử các đoàn đi sứ về việc đất đai và đi xác định mốc biên gới phía Bắc. Có một lần năm 1718 trong dịp cử đoàn đi sứ sang nhà Thanh, chúa Trịnh Cương đã tặng các sứ thần Nguyễn Công Hãng và Nguyễn Bá Tòng hai câu thơ nôm
Nghĩa lợi ổn tường trong vấn đáp
Kinh quyền nhẩm thấy ấy quan phòng
Hai câu thơ nôm đã tóm tắt chủ trương và phương pháp đấu tranh bảo vệ biên cương của nhà Trịnh: khi ngoại giao với nước lớn, đoàn sứ thần phải ứng đối mềm dẻo, tinh tường và linh hoạt, vừa hợp lý vừa có lợi cho nước. Cuối cùng, năm 1782 đã đòi được mỏ đồng Tụ Long trở về ta. Từ đó chính quyền Lê Trịnh mở rộng khai thác, có xưởng khai khoáng, phố, chợ, mỗi năm thu được 45 vạn cân đồng.
Biên giới nước ta, qua các triều đại trải dài nghìn năm lịch sử, thời Lê Trịnh, chúa Trịnh Cương đòi được mỏ đồng, tức là biên giới lại nhích trỏ lại lên phía Bắc. Sự kiện có trong lịch sử và rất đáng tự hào này được sách sử ghi chép.
Đòi lại danh hiệu quốc vương
Các chúa Trịnh đã đòi nhà Minh công nhận vua Lê là quốc vương thay vì danh hiệu đô thống sứ từ triều trước. Năm 1597, chúa Trịnh Tùng cử Phùng Khắc Khoan đi đòi phong quôc vương, vua sứ của triều trước, nhưng còn dùng dằng. Khi đó Mạc Kính Cung vẫn còn đút lót quan Tàu. Nhưng đến 1647, chúa Trịnh Tráng đã đòi được nhà Minh phong cho vua Lê Thần Tông là An Nam quốc vương.
Đến 1651, nhà Minh phong chúa là Đô thống sứ đại tướng quân, nhưng chúa Trịnh Tráng trả lại ân sắc, ngụ ý nước ta đã là vương quốc chứ không phải Đô thống sứ ty như thời Mạc. Nhà Mình đành phỉa sai Trương Túc mang ấn sắc phong chúa Trịnh Tráng là phó quốc vương. Năm 1719, nhà Thanh sai Đặng Đinh Triết sang phong vương, đòi vua Lê Dụ Tông phải ba quỳ chín vái để thụ phong. Chúa Trịnh Cương đề cao quốc thể đưa thư không chấp nhận việc vua Lê phải quỳ lạy. Đặng Định Triết cứ gặng ép, nhưng chúa Trịnh Cương vẫn cứ bác bỏ. Thư đi thư lại mãi, Đinh Triết tự ái nhưng cuối cùng cũng đành phải làm lễ phong quốc vương mà vua Lê không ba quỳ chín vái.
Sử sách còn ghi
Thông qua công tác đối ngoại, các chúa Trịnh đã đem về cho Tổ quốc những gì quý báu nhất , đó là “ lấy được đất, giành được ngôi vua”. Trong lịch sủ nước nào cũng vậy, những thu hoạch lớn kiểu như thế( lấy đất, giành ngôi) thường phỉa trả giá xương máu thông qua chiến công của các danh tướng. Ở đây chúa Trịnh thu được thắng lợi là thông qua đàm phán hoà bình.
Nhà sử học Phan Huy Chú đã chép sự việc đòi đất như sau: “ các mỏ nước ta chỉ có đồng Tụ Long là đồng tốt nhất, tiền tệ của nhà nước đều do ở đấy mà ra… bị người Thanh chiếm mất, đến đời Bảo Thái (1720-1729) tranh biện mới lấy lại được bờ cõi cũ “( Lịch triều hiến chương loại chí, NXB KHXH, 1992, II.tr.261). Việc đòi lại danh hiệu quốc vương cho vua Lê cũng được chép như sau: “ Nhà Minh đã phong quốc vương, lại phong phó quốc vương và phụ chính vương cho ( chúa) Trịnh, so với trước thực khác hẳn” ( Lịch triều hiến chương loại chí, 1992, III, 209-211). Đọc sủ ai cũng được chép như sau: “ biện bạch ba bốn lần Đinh Triết mới phải theo gượng” ( Lịch triều,III,tr212). Giáo sư sử học Trịnh Nhu đã có bài giới thiệu chi tiết việc chúa Trịnh Cương đòi được mỏ đồng Tụ Long năm 1728, in ở Kỷ yếu Hội thảo chúa Trịnh….., 1995,tr.194-203.
Khi đánh giá toàn bộ giai đoạn lich sử vẻ vang này ( thời vua Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương) Phan huy Chú đã viết: “ Pháp độ kỷ cương rất hẳn hoi đầy đủ, các phươg xa đến cống hiến và Trung Quốc trả lại đất đai, thực là đời rất thịnh” ( Lịch triều, I, 209).
Về mặt kinh tế (Đất nước hưng thịnh)
Sự phát triển mạnh nền kinh tế dưới sự quản lý của các chúa Trịnh ở một góc độ nào đó được đánh giá của các chúa Trịnh ở một góc độ nào đó được đánh dấu bằng sự xuất hiện hai từ: Kẻ Chợ và Hưng thịnh. Danh từ dân dã Kẻ Chợ xuất hiện thời Lê trịnh, chữ Chợ hàm ý hàng hoá phồn vinh, buôn bán tấp nập.Tính từ gốc Hán Hưng thịnh, hưng khởi đã xuất hiện nhiều lần trong thư tịch thế kỷ XIX và thế kỷ XX khi nói đến đoạn sử thời Lê Trịnh.
Hưng thịnh: thứ nhất kinh kỳ ….
Nhiều tác giả đã dùng chữ thịnh, hưng thịnh hay hưng khởi như sau. Nhà sử Phan Huy Chú viết ở quyển Lịch triều(1992,I,tr.209) về thời Lê Trịnh như sau: “ …. Thực là đời rất thịnh” . Luận án tiến sĩ sử học của Nguyễn Thừa Hỷ bảo vệ năm 1984 viết ở tr.11: “ Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá của Đàng ngoài là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hưng khởi của Thăng Long những thế kỷ XVII và XVIII”. Trong cuốn sách nhan đề Bút Tháp (1996), Nhà xuất bản Mỹ thuật viết lời mở đầu: “ Thế kỷ XVII… đất nước đựơc mở rộng. Làng xã hưng thịnh. Nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp và tiểu thương rất phat triển”.
Giáo sư Phạm Văn Diệu viết ở tạp chí nguyệt san Văn hoá (1963,II,tr.183): “đời Trịnh Căn trị vì là một đời thịnh”. Nhà sử Nguyễn Thừa Hỷ viết trong quyển Thăng Long (1993,tr.5 và tr.133-135) tổng lược sự hưng khởi thời Lê Trịnh: “… từ thế kỷ XVII Thăng Long phhat triển với tốc độ nhanh … Sự lớn mạnh của bộ máy lương thế Lê Trịnh tạo nên một trung tâm hấp dẫn người, hàng và kỹ thuật nghề thủ công từ các địa phương về Thăng Long…. Một toàn cảnh lịch sử toàn quốc (Đàng ngoài và Đàng trong ) của một loạt thành thị trỗi dậy. Thăng Long, Phố Hiến, Vị Hoàng, Phú Xuân , Hội An, Bến Nghé,v.v,trong đó Thăng Long đã trở thành , Thăng Long – Kẻ Chợ… một trong những htnàh Thăng Long -Kẻ Nam Á và phương Đông nói chung, trứoc sự chú ý và chiêm ngưỡng của các lái buôn và giáo sĩ phương Tây” Phù hợp với từ hưng thịnh của các tác giả vừa dẫn trên đây, có nhiều tác giả nước ngoài đến Thăng Long hồi thế kỷ XVII và XVIII đã viết hồi ký mô tả Thăng Long rất đẹp và sầm uất, xứng đáng với câu của Nguyễn Thừa Hỷ nói là: “ một thành thị lớn của vùng Đông Nam Á… trước sự chiêm ngưỡng cuẩ phương Tây”. Sau đây là vài trích đoạn làm thí dụ. Giáo sĩ người Ý Marini đến Thăng Long năm 1666, khi về nước ông viết Du ký (in ở Pairs cùng năm đó) mô tả Thăng Long (tr.116-118): “ cả một thành phố rất đẹp và rộng…vườn tược, võ khí,voi ngựa…. tất cả đều làm người ta ngạc nhiên và vượt qua những điều có thể nói (để khen ngợi)..hàng bao tấm thảm đẹp,mọi thứ đều đẹp không gì so sánh được”. Careri viết trong hồi ký (in năm 1695) “ Kẻ Chợ có rất nhiều chợ đẹp”. Alexandre de Rhodes trong quyển Lịch sử vưông quốc Đàng Ngoài, ca ngợi Thăng Long-Kẻ Chợ đẹp:”… đường phố Kẻ Chợ rộng và thẳng đến mức mưòi con ngựa có thể đi hàng ngang dễ dàng”. Bissachere viết: “đưòng phố thẳng và rộng rãi”.Nguyễn Thừa Hỷ viết (1984): “ Phát triển kinh tế hàng hoá Đàng Ngoài là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hưng khởi của Thăng Long ….”. Nếu nhìn toàn cảnh lịch sử cả nước gồm Đàng Ngoài do chúa Trịnh quản lý, và Đàng Trong do chúa Nguyễn quản lý, thì thấy Thăng Long hưng khởi không là điều lạ. Rất dễ dàng đồng ý với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Thừa Hỷ (1984,1993, đã dẫn) và nhà nghiên cứu kinh tế Nguyễn Thanh Nhạ, rằng thời đó (thế kỷ XVII,XVIII) ở nứôc Đại Việt có hiện tượng hưng thịnh thể hiện bừng “một loạt thành thị trỗi dậy: Thăng Long, Phố Hiến, Phú Xuân,Hội An…”(và nhiều thành thị khác, Tableau économique du Viet Nam aux XVII è et XVIII è sìecles, Éditions Cúa, Paris,1970).
Đầu năm 1593, khôi phục được Thăng Long quân Lê Trịnh phá hào luỹ Đại La, rồi chỉ xây dựng cung phủ đón vua Lê từ Thanh Hoá ra. Từ đó hơn trăn năm sau không có hào luỹ ngăn khu vua ở(thành) với khu dân buôn bán (thị). Nguyễn Thừa Hỷ (Thăng Long, tr.5-6) gọi yếu tố đó và một số việc khác ý nghĩa trong việc phat triển mạnh mẽ phần thành cũng như phần thị của Thănng Long”. Ông cho rằng thế kỷ XVII phhat triển “mạng lưới chợ-phố vùng đồng bằng sông Hồng. Thăng Long-Kẻ Chợ thành một trung tâm hội tụ lớn” (tr.13) và trở thành đầu mối cảu các tuyến hàng Kẻ Chợ- Thượng Du, Kẻ Chợ- Thanh Nghệ, Kẻ Chợ-Đồng Bằng, rồi Kẻ Chợ đi Vân Nam và đi các nước Đông Nam Á.
Triều Lê Trịnh là triều đại đầu tiên trong lịch sử mở rộng buôn bán với phương Tây; năm 1645 đặt thương điếm Hà Lan, 1686 đặ thương điếm Anh Giao lưu buôn bán đưa đến hôn phối. Thương gia Samuel Baron mẹ Việt, cha Hà Lan, đứng đầu thương điếm ở Kẻ Chợ năm 1663. Quyền Mô tả vương quốc Đàng Ngoài của ông (xuất bản năm 1680) được nhiều người trích dẫn vì có tư liệu rất sống về Thăng Long hưng thịnh và giao lưu với phương Tây. Vua Lê Thần Tông(1619-1662) có một người vợ là người Hà Lan, người ta cho rằng ngài là người Việt Nam đầu tiên lấy vợ người Âu. Một loạt sự kiện như vừa kể trên: thương gia lai Hà Lan-Việt, xuất hiện tiếng dân dã” Kẻ Chợ”. để gọi Thăng Long, đặt thương điếm của nước ngoài, hưng thịnh do phát triển kinh tế hàng hoá và nghề thủ công dưới triều Lê Trịnh. Những dấu vết
đó không thể bị thời gian xoá được và đã được ghi vào sử sách.
Phát triển nghề và kinh tế hàng hoá
Nước Đại Việt có nền kĩnh tế hàng hoá có vị trí ngày càng quan trọng hơn. Thợ ở các làng nghề chuyển mạnh ra kinh đô có điều kiện phát triển.
Nghề thêu gốc ở làng Quất Động, tổ là Lê Công Hành thế kỷ XVII truyền nghề cho học trò di cư ra Thăng Long, lúc đầu hành nghề chủ yếu ở phố Yên Thái và phố hàng Thêu(nay là Hàng `Trống). Thợ đúc đồng từ Kinh Bắc di cư sang Thăng long và định cư ở Ngũ Xã đã đúc pho tượng đồng đen nổi tiếng ở quán Trấn Vũ, nặng 4 tấn vào năm 1677 triều vua Lê Huy Tông, chúa Trịnh Tạc. Nghề làm giấy có ở Thăng Long từ thế kỷ thứ XIII, đến 1598 triều Lê Trịnh về Thăng Long hạ lệnh mở Cục làm giấy, đến thế kỷ 18 nghề làm giấy phát triển ở phường Yên Thái, ở Bưởi, giấy bán di khắp nước. Nghề gốm ở Thổ Hà (Kinh Bắc), đến thế kỷ XVII nghề gốm ở Bát Tràng phát triển mạnh. Năm 1688 Dampier đến Thăng Long ghi nhận( trong cuốn Voyages anh Discoveries, 1688) nhièu tàu Hà Lan mua gạch và bát đĩa Bát Tràng ở Thăng Long đem bán ở Ấn Độ và ở Sumatra rất đắt khách. Sách của Bissachère ( xuất bản ở Paris,1980) và sách khác ghi nhận đồ gốm Bát Tràng phát triển cả trong thế kỷ XVIII và thấy có bầy cả ở một viện bảo tàng Nhật. Một số nghề khác tập trung về Thăng Long và phát triển mạnh vào các thế kỷ XVII và XVIII: sơn, khảm khắc ván in, đúc tiền, thuộc da và làm giầy, v.v.
Cường độ giao lưu hàng hoá giữa đồng bằng Bắc bộ với miền Trung và các miền khác, giữa trong nước với các nước ngoài, đã làm xuất hiện dưới thời Lê Trịnh một tên mới để gọi kinh đô Thăng Long: Kẻ Chợ. Sự xuất hiện từ Kẻ Chợ vào thế kỷ thứ XVII là một cột mốc đánh dấu bước phát triểnn mạnh mẽ kinh tế hàng hoá dưới thời Lê Trịnh. Lúc này kinh tế hàng hoá sắp chuyển qua một bước ngoặt mới: ngoại thương.
Phát triẻn mạnh ngoại thương
Triều Lê Trịnh là triều đại phát triển mạnh buôn bán với phương Tây. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta nhận cho đặt phương điếm Hà Lan (1645), rồi thương điếm Anh (1686), tầu lớn ra vào cảng tấp nập. Vì an ninh quốc gia, chúa Trịnh không cho tàu biển nứôc ngoài vào tận Thăng Long, mà dỡ hàng ở khúc sông phía dưới, ở nơi là thị xã Hưng Yên ngày nay.
Tại đó đặt quan Hiến sát sứ trông coi việc giâo hàng. Do đó tạo nên phố có nhiều hàng hoá và dân gọi là phố Hiến với câu ca biểu thị độ sầm uất của phố Hiến chỉ kém có Thăng Long.
Thứ nhất kinh kỳ
Thứ nhì phố Hiến
Ngày nay, tại thị xã Hưng Yên có một đường phố mang tên Phố Hiến, lưu niệm một trung tâm trao đổi ngoại thương thế kỷ XVII và XVIII. Thời xưa,dòng sông Hồng chảy sát chỗ đó, tàu cặp bến tạo ra phố ( phố Hiến), sau ba thế kỷ sông đổi dòng nay cáh xa 2 kilômét, thị xã Hưng Yên không còn địa hình thuận lợi cho tàu lớn cập bến rỡ hàng.
Chợ là nơi trao đổi hàng hoá. Từ Kẻ Chợ phản ánh việc người dân coi Thăng Long là nơi trao đổi hàng hoá sầm uất nhất cả nước. Sách thời đó của giáo sĩ và thương gia phương Tây thường gọi Thăng Long là “Kẻ Chợ”, họ viết là Kecho, hay Kechao tuỳ tác giả. Từ Kẻ Chợ đi vào sách xuất bản phương Tây cùng với việc đặt các thương điếm nước ngoài là những cột mốc đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ ngoại thương với phương Tây, đó là dưới triều Lê Trịnh ở Đàng Ngoài. Từ lúc này Thăng Long không còn chủ yếu chỉ là một trung tâm chính trị, nơi có vua ở trong tường “thành”. Nay có thêm yếu tố hàng hoá sầm uất (thị) gọi là thành thị, theo cách nhấn mạnh của nhà nghiên cứu sử Nguyễn Thừa Hỷ. Từ tính chất “ thành” chuyển mạnh sang tính chất “ thành thị” khi có nhiều liên lạc giao lưu hàng hoá với nhiều vùng đất nước, Thăng Long đóng vai trò trung gian chuyển hàng hoá và điều tiết giữa nhiều vùng đất nước có giao lưu hàng hoá với nước ngoài. Phố Hiến trở thành “đầu cầu bốc dỡ hàng” của Thăng Long và nước Đại Việt (Đàng Ngoài) trong ngoại thương. Phần sau nói về phát triển văn học nghệ thuật thời Lê Trịnh, trong phạm vi này Thăng Long vẫn là nơi tập trung nhiều yếu tố tạo nên bức tranh văn hoá Thăng long có nhiều nét tiêu biểu cho đất nước hồi thế kỷ XVII và XVIII.
Văn học nghệ thuật thời Lê Trịnh
( còn nhiều di tích văn hoá lịch sử) Chùa Bút Tháp và các đền chùa
Một trong những ngôi chùa nổi tiếng thời Lê Trịnh là chùa Bút Tháp. Chùa được đại trùng tu, gần như làm lại mới năm 1647. Gần đây có riêng một quyển Bút Tháp của Phan Cẩm Thượng,do Nhà xuất bản Mỹ Thuật xuất bản ở Hà Nội năm 1996. Sách có 84 bưc ảnh mỹ thuật phản ánh nhiều công trình kiến trúc và sản phẩm điêu khắc thời Lê Trịnh do công lao bà Trịnh Thị Ngọc Trúc xây dưới sự bảo trợ của Trịnh Tráng. Nhà xuất bản Mỹ Thuật đã viết lời giới thiệu mở đầu: “ Thế kỷ XVII… đất nước được mở rộng. Làng xã hưng thịnh . Nông Nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tiểu thương rất phát triển…Kiến trúc, điêu khắc, trang trí Bút Tháp nằm gọn trong thế kỷ XVII (tức dưói triều Lê Trịnh – BD) là di tích nguyên vẹn đặc trưng nhất của nghệ thuật Phật giáo cổ điển Việt Nam”.
Ngoài chùa Bút Tháp, triều Lê Trịnh còn xây dựng và đại tu nhiều chùa và đền thờ. Nước Đại Việt có hơn một nghìn hạng mục công trình kiến trúc có tiếng loại đình, chùa, lăng,miếu, nghè, đền, thành quách, tháp;chưa kể ba bốn trăm công trình của Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Trong hơn nghìn công trình ở Đàng Ngoài dưới quản lý của chính quyền Lê Trịnh, có ít ra 30% được xây dựng và đại tu dưới triều Lê Trịnh. Đây là số liệu sơ bộ thống kê. Dù sao, điều chắc chắn là triều Lê Trịnh không những đóng góp công trình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc nhiều về số lượng, mà còn cao về chất lượng. vài thí dụ đền chùa nổi tiếng ngoài chùa Bút Tháp còn phải kể chùa Tây Phương( chúa Trịnh Tạc, 1660), đền Quán Thánh (chúa Trịnh Tạc, 1677) với tượng đồng Trấn Võ nặng bốn tấn, chùa Hàm Long (Trịnh Thập), chùa Nga Mi (Trịnh Đỗ); hai chùa có kiến trúc có giá trị mỹ thuật cao,kiểu “trùng thiêm điệp ốc” là chùa Tây Phương do chúa Trịnh Tạc trùng tu năm 1660, chùa Kim Liên do chúa Trịnh Sâm trùng tu, mở rộng năm 1771,v.v.
Văn học, y học, khoa cử
Tiến sĩ.
Từ đầu thế kỷ 16 có các tiến sĩ Trịnh Đỗ Trịnh Duy Thông, Trịnh Quang Tán. Dưới triều Lê Trịnh có các tiến sĩ Trịnh Cảnh Thuỵ, Trịnh Lương Bật, Trịnh Văn Tuấn, trịnh Cao Đệ, Trịnh Thì Tế, Trịnh Đức Nhuận, Trịnh Minh Lương, Trịnh Đức Văn, Trịnh Bá Tương, Trịnh Ngô Dung, Trịnh Đồng Giai, Trịnh Xuân Thụ, Đỗ trạng nguyên có Trịnh Tuệ.
Tạo sĩ.
Nhà nước Lê Trịnh tổ chức thi võ, ai đỗ gọi là tạo sĩ võ. Ở Thượng Nguyên có Trịnh Châu Trí, ở Bắc Ninh có Trịnh Tự Thức đều thuộc chi họ Trịnh làng Phù Lỗ nay thuộc huyện Sóc Sơn ngoại thành Hà Nội. Ở đây cưa kể nhiều tạo sĩ dòng trực hệ chúa Trịnh.
Đổi mới thi cử,cấp học điền tưc là Nhà nước cáp ruộng cho học trò nghèo để có gạo ăn học; trường quốc học đựôc 60 mẫu ruộng, trường hương học được 20-40 mẫu(một mẫu ruộng là 360 m2).
Về y học,
Họ Trịnh có nhiều thầy thuốc giỏi. Quyển Cội Nguồn(1996) cho biết chỉ hai thôn Định Công Hạ và Thái Bình ( Hà Nội) có chi họ Trịnh đã có thầy thuốc liên tục các đời năm trăm năm nay kể từ triều Mạc (1527). Hiện nay ở hai thôn đó số thầy thuốc có bằng đại học trở lên chiếm tỉ lệ một thầy thuốc cho một trăm dân làng. Đó là tỉ lệ cao vì ở Tây Âu hiện nay tỉ lệ là một thầy thuốc cho đến hai đến bốn trăm dân tuỳ nước. Danh y có Trịnh Đôn Phác người làng Đa Sĩ, chức thư phiên (như giám đốc) của Thái y viện được mời đi chữa bệnh cho vua nhà Thanh(báo Hà Tây,1995). Lại có Trịnh Đình Kiên, chức quản trị hậu viện trông coi Thái y viện được mời đi chữa bệnh cho vua nhà Thanh. Do việc này Trịnh Đình Kiên được vua Thanh biếu bức hoạ chân dung ông (Khoa Học và Đời Sống,1994), bức hoạ này hiện còn lưu ở Nhà thờ họ Trịnh thôn Định Công Hạ. Trịnh Đình Ngoạn đứng đầu sáu cung Thái y viện và Phủ đô đốc, khi nghỉ hưu ông quyên góp xây dựng Y miếu Thăng Long. Nhiều sách báo đã nói đến Y miếu Thăng Long như Tạp chí Đông Y 1977, Cội Nguồn 1996,v.. Có hai bài có ý nghĩa đặc biệt trong lúc này (cuối 1999,chuẩn bị kỷ niệm 990 năm Thăng Long) là bài của Thái Thư ở báo Lao Động 1997,và bài của Lê Minh Quốc (kiến thức ngày nay,11-1997). Đại ý hai bài là: nói nghìn năm Thăng Long có dẫn văn miếu đã là đúng,nhưng tốt hơn nữa là nên dẫn cả ba miếu là Văn miếu, Võ miếu, Y miếu. Ba miếu đó ở giữa thủ đô, cáh nhau dưói 300 mét. Dân ở cạnh đó có những người vốn gốc ở đấy rất biết và tự hào về ba miếu này. Y miếu Thăng Long ở số 9 phố Ngô Sĩ Liên đã đuọc Nhà nước ta xếp hạng là Di tích lịc sử, đường vào đã đựơc đặt tên là phố Y Miếu. Dịp kỷ niệm 990 năm và 1000 năm Thăng Long là cơ hội tốt để Y miếu và Võ miếu được tôn tạo.
Về mặt văn học,
Thời Lê Trịnh có nhiều tác phẩm có giá trị. Giáo sư văn khoa Pham Văn Diêu đã giới thiệu tập thơ của chúa Trịnh Căn, nhan đề Ngự đề Thiên hoà doanh bách vịnh. Tập thơ nôm này được học giả Nguyễn Văn Tố phiên ra quốc ngữ hồi những năm 40 và giới thiệu tạp chí Tri Tân. Theo giáo sư Phạm Văn Diêu viết thì tập thơ này phản ánh chúa Trịnh Căn là “… một vị chúa chăm lo việc nước…có ý chí xây dựng quốc gia… và lòng tự hào tự tôn dòng họ… đóng vai trò tích cực trong lịch sử…tập thơ nói lên sự bền vững của chế độ mình, đồng thời gợi trong trí ngưòi ta một xã hội có kỷ cương trật tự,một đời thịn..”(Nguyệt san Văn Hoá,1963,II,TR.185-187)….Gần đây nhà nghiên cứu Ngô Đức Thọ phân tích thơ nôm Đường luật của vua Lê Thánh Tông và của chúa Trịnh Căn, thấy hai tác giả này có góp phầnn biến đổi thích hợp để vẫn tôn trọng luật thơ Đường mà hợp với tiếng Việt.Học giả Hoàng Xuân Hãn đã sưu tầm, sao và giới thiệu một chỉ truyền (thư tuyền lệnh) bằng chữ nôm do Trịnh Kiểm viết dưn dò ba người giúp cải táng mộ. Dưới đây trích dẫn một câu đầu một câu cuối.
“ Chỉ truyền (gửi các ông) Thâm Thọ, Nhân Lộc và Thuần Tín. Việc ta đã ước hẹn cùng Trời Đất cùng Tổ tiên, đã tốt lành mọi nhẽ…(các) ngươi hãy (làm) cẩn thận cho yên lòng ta tin cậy. Đất cải (táng) thì lại hoàn đấy (lại đưa về huyệt cũ). Nay chỉ truyền”…
Năm Đinh Mão (1627), có chiếu sắc của vua Lê Thân Tông gửi chúa Nguyễn về việc thuế. Trích dẫn một đoạn ngắn sau đây. “ Hoàng thượng sắc dụ cho Thái bảo Thuỵ quận công Nguyễn biết rằng: Mệnh lệnh triều đình , đạo làm tôi phải nên tuân thủ, thuế má phủ huyện, tướng ngoài cõi không được tự chuyên. Trước đây trẫm có sai Công bộ thượng thư là Nguyễn Duy Thì…Khâm tai dụ sắc”. ( Lê thế ngọc phả, bản dịch năm 1927 của chi họ Lê Duy làng Yên Phú,tr.205)
Những thạch thi tức là thơ khắc vào đá của Tĩnh vương Trịnh Sâm, tại nhiều thắng cảnh đất nước, đã được nhiều sách báo nói đến.
Có thể nói là dưới thời Lê Trịnh thơ và chữ nôm về một mặt nào dó đã là sự kế tục và phát triển thơ và thơ nôm thời Hồng Đức. Ngoài ra chữ nôm đã đi vào văn bản của Nhà nước (sắc dụ vua Lê Thần Tông). Đó là thêm một bước mới trên con đường dài dân tộc hoá văn học và ngôn ngữ nước ta. Cuối cùng nên biết hai cột mốc lớn của phát triển quốc ngữ dưói thời Lê Trịnh. Một là cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, đó là cuốn từ điến ngôn ngữ đầu tiên của nước ta. Cột mốc thứ hai của quá trình phát triển quốc ngữ là cuốn sách đầu tiên viết bằng quốc ngữ được A. de Rhodes soạn trong thời gian 1627-1630, lúc này ông đang ở một căn nhà đẹp tại Thăng Long do chúa Trịnh Tráng cấp.
Thăng Long: một phần chưa bộc lộ của văn học nghệ thuật thời Lê Trịnh
Thiên nhiên, chiến tranh và thời gian đã xoá nhiều vết tích lich sử. Gần trăm năm ta mất nước rồi trải hai cuộc chiến tranh. Vì vậy, nếu như bị mất đi nhiều dấu vết của quá khứ vinh quang cac triều đại cũ trong đó có vương triều Lê Trịnh thì cũng không là lạ. Nói đúng ra, quá khứ không bị xoá sạch, mà chỉ mòn, mờ và có lớp bụi phủ. Rất gần đây có người lục tìm sự thật dưới lớp bụi.Vương triều tức chính quyền Lê Trịnh đã kết thúc cách đây trên hai trăm năm, nhưng nền nghệ thuật thời Trịnh không gì xoá đựợc. Điểm sách báo,chỉ năm năm gần đây thôi (1994-1999), có ít ra 20 bài báo và ấn phẩm nói về nghệ thuật thời Trịnh. Phần lớn tác giả là những ngưòi đã có nhiều nghiên cứu về sủ và về nghệ thuật như hoạ sĩ Phan Cẩm Thượng, tiến sĩ sử học Đinh Công Vĩ, nhà nghiên cứu sử Nguyễn Xuân Diện,tác giả Đỗ Thỉnh,nhà báo Trương Thị Kim Dung, hoạ sĩ Trịnh Quang Vũ, cán bộ sử và bảo tàng, cán bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền quê chúa Trịnh (ở Thanh Hoá). Các tài liệu nói trên, cùng với Triển lãm mỹ thuật và Hội thảo mỹ thuật cuối năm 1999 và báo Tết năm Canh Thìn( Thế giới điện ảnh, Thời báo Kinh tế, Xưa và nay) có thể cho phép ta rút ra hai điểm về nghệ thuật thời Thăng Long: (1) có nhiều công trình nghệ thuật kiếnn trúc và tạo hình thời Lê Trịnh còn tồn tại đến nay,trong đó nhiều công trình có giá trị chưa được xếp hạng và bảo tồn (2) còn tiềm ẩn nhiều di tích văn hoá nghệ thuật thời Lê Trịnh chưa được đưa lên sách báo thí dụ rồng Trịnh đầu kỳ lân khác rồng Lê sơ đầu cá sấu, các vật linh, cá trang phục thời Trịnh, lầu Ngũ Long,các cổng thành,v.v,
Hoạ sĩ Trịnh Quang Vũ lâu nay sưu tầm tư liệu lạo này, xư lý và lưu giữ thông tin còn rất ít công bố. Ông có thể là trong số những nghệ sĩ và nhà nghiên cứu rồi đây sẽ cùng nhau góp phần “ khai quật” phần di sản tiềm ẩn đó, phân tích khai thác tư liệu đó để rút ra sắc thái thời đại Lê Trịnh (thế kỷ XVII-XVIII) từ các kiến trúc và điêu khắc cổ. Nếu việc này có thể niên đón là điều đáng mong muốn. Chúng ta chờ đón và nên có thông tin cập nhật.
Tìm ra giá trị văn hoá nghệ thuật của các công trình kiến trúc và tạo hình vùng Thăng Long-Hà Nội đã được xây dựng và trùng tu vào thế kỷ XVII và XVIII, là góp phần tìm ra một sự thật lịch sử cho đến nay ít được biết đến hoặc ít được lưu ý. Sự thật đó là trong các thế kỷ XVII và XVIII đã tồn taịi một nước lớn phía Bắc (giúp Minh đánh Thanh, đòi lại đất đai, tôn vinh quốc thể) ắt phải có một Thăng Long-Kẻ Chợ hưng thịnh sầm uất, xứng đáng là “kinh kỳ” nước Đại Việt ở thời điểm gần ngày nay nhất, trước khi trở thành một phiên trấn phía Bắc dưới các triều đại phong kiến sau đó.
Triều Lê Trịnh sở dĩ có một tỷ lệ cao của phần đóng góp về mặt này còn vì ba nguyên nhân sau đây. Một là vương triều vào loại dài trong lịch sử. Hai là thời Lý Trần đã qua xa, triều Lê Trịnh thịnh Phật giáo nhiều chùa với nhiều công trình chạm trổ. Ba là tác dụng của quyền lực cá chúa Trịnh và công sức các phi tần nhà Trịnh mà dân gian thường truyền tụng là “công đức bà chúa”. (Thông tin trên đây dựa vào quyển Đình chùa lăng miếu nổi tiếng Việt Nam do Trần Mạnh Thường chủ biên (NXB VHTT,HN 1998), và tư liệu của ông Trịnh Quang Vũ).
Những vấn đề xã hội và đạo lý
Trong lịch sử nước ta cũng như lịch sử phong kiến thế giới, vương triều nào cũng có khi hưng khi suy rồi đựơc thay thế. Bên Trung Quốc các triều trải qua hưng, suy, lần lượt là Hán, Đường, Tống, Nguyên. Bên ta cũng lần lượt là Đinh, Lê, Lý, Trần. Khác nhau là ở thời gian tồn tại: hoặc là suy thoái nhanh rồi mau đổ, hoặc là cường thịnh và tồn tại lâu hơn. Triều Lê Trịnh vào loại tồn tại lâu, có nhiều nguyên nhân. Dưới đây trình bày ba vấn đề có thể ít nhiều liên quan đến sự trưòng tồn của triều đại là:dùng người hiền, giúp ngưòi nghèo, và đạo lý.
Nhà Trịnh dùng người hiền, chống tham nhũng
Nhiều chúa Trịnh được đánh giá là biết dùng người hiền(có tài đức), dùng tướng giỏi. Phan Huy Lịch triều hiến chương loại chí (1992) đã vviết về Trịnh Tùng (I,tr.212): “ông khoan hậu, yêu người, khéo vỗ về tướng sĩ”. Cũng quyển đó viết về Trịnh Tráng (tr.212): “ hoà hợp nhân dân, tin trọng nho thần”, và về Trịnh Căn (tr.213): “cất nhắc, dùng các anh tài”. Báo Giáo dục và thời đại (1-1997,tr.22) viết là nhờ chúa Trịnh Sâm biết trọng dụng người tài nên đã sử dụng được những người như Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Bá Lân, Bùi Huy Bích, và nhiều ngưòi khác có danh tiếng. Tiến sĩ sử học Đinh Công Vĩ đã kểa hàng chục trường hợp các chúa Trịnh Sâm, Trịnh Doanh, TRịnh Giang, Trịnh Cường chống tham nhũng (Dân chủ và Pháp luật,1992, số 11, tr.10). Năm 1747 chua Trịnh cho “đặt chuông mõ ở của phủ đường để ngưòi tài tự tiến cử và người bị ức hiếp đến khiếu nại”(Biên niên lịch sử, 1987,tr.357;XVN dẫn,1998,54,tr.31); chúa Trịnh Doanh đi trận về nghe tin nhũng lạm thi gian, đã cho thi lại ( theo Việt sử thông giám cương mục).
Họ Trinh giúp người nghèo
Vương triều Lê Trịnh có chính sách giúp người lao động nghèo thí dụ với người trú ngụ khẩn hoang thì cho “làm thổ” có nghĩa là cho almf chủ đất đai khai khẩn đó( bài cảu giáo sư sử học Văn Tạo 6-1994 về khái niệm “đổi mới” thời Lê Trịnh). Ông Lê Tạo là một cán bộ sử họ tỉnh Thanh Hoá tham dự Hội thảo năm 1995 về chúa Trịnh(Kỷ yếu, tr.136-144) đã dẫn một loạt trích đoạn lấy từ Đại Việt sử ký toàn thư và từ Việt sử thông giám cương mục về các chính sách xã hội của chúa Trịnh giúp người nghèo. Sau đây là vài thí dụ. Năm 1613, Trịnh Trnág sai người đi điều tra để tha tạp dịch ba năm cho dân nghèo lưu tán. Trịnh Tráng sai người đi điều tra để tha tạp dịch ba năm cho dân nghèo lưu tán. Trịnh Căn ban ân tuất, miễn thuế và sai dịch cho người nghèo khổ. trịnh Cương cho người đi khâi khẩn thì được “làm thổ đất đó”, tức là được quyền sở hữu đất để yên tâm sản xuất,năm 1714 lại sai Phạm Huy Định và Lê Quý Đôn đắp đê ven biển Sơn Nam mộ dân cày cấy. Trịnh Giang mở ruộng biển ở Trưòng Yên và sai Nguyễn Khản mộ dân lập ấp. Trịnh Sâm nấu cháo , và ra lệnh mọ dân khẩn hoang cho mỗi người năm mẫu ruộng trâu bò nông cụ và 15 quan tiền. Từ đời Trịnh Tùng đến Trịnh Sâm khoảng 150 năm, các chúa Trịnh đã 13 lần giảm và miễn thuế hoặc giảm miễn thuế hợp lý. Trận lụt năm 1695 ở Thanh Hoá và trận đói năm 1713,mỗi trận chúa Trịnh đều họp quần thần bàn cáh cứu đói và phát một van quan tièn. Ngoài ra con nhiều chính sách đối với người già, goá bụa và mất sức. v.v.
Ngoài các chúa Trịnh, còn có nhiều cá nhân người họ Trịnh hoặc phi tần nhà Trịnh gúp dân truyền tụng và thờ cúng. Chuyện ‘ông Liên bà Đột” là chuyện công đức của hai vợ chồng Trịnh Công Liên, lưu truyền ở Phượng Trì (Bình Đà), do ‘ông” đã tìm mạch đào cả một hệ thống giếng trong và mát trong vùng, và “bà” đã xây chùa ở xóm Dộc; Trịnh Công Liên là chắt của chúa Trịnh Tùng. Người ca nữ tài danh trong phủ chúa là bà Ngọc Kiều Nguyễn Thị Huệ người làng Cựu Lâu(nay là phố Hàng Trống)n ca nữ của chúa Trịnh Cương, đã phát thuốc gia truyền cứu dân bị bệnh dịch, được dân nhớ ơn thờ(đền Hàng Trống) với phong tục lâu đời về “hoa huệ”.
Một số “bà chúa” được dân nhớ ơn và thờ. Ở làng Xuân Đỉnh có bà chúa “đạc đất” cho dân ruộng đất, lại đặt phương pháp đo đất và đắp bờ hợp lý để nhiều đời không tranh chấp và cấy lúa thuận tiện. Dân nhớ ơn thờ bà với một phương pháp đo đất và đắp bờ hợp lý để nhiều đời không tranh chấp và cấy lúa thuận tiện. Dân nhớ ơn thờ bà với một pho tượng độc đáo bằng mây song. Ở tổng Mía có bà chúa Mía người tổng đó đã đứng ra tôn tạo chùa Sùng Nghiêm(1632) được dân nhớ ơn tạc tượng phối thờ trong chùa và lập đền cúng. Ở huyện Hoài Đức có vùng ruộng đất dân vãn gọi là “Ruộng bà chúa” là khu 30 mẫu ở làng Nghĩa Dưới( cách thị xã Hà Đông 4 km) của vợ chúa Trịnh Sâm cho dân làng để chia cho người nghèo đi lính, dân nhớ ơn vẫn lấy ngày 16-2 cúng tế bà ở đình làng. Các “ bà chúa” kể trên đều là phi tần của các chúa Trịnh.
Đạo lý các chúa Trịnh kính thày_ một di sản
Ở làng Me,xưa là xã Ông Mạc xứ Kinh Bắc,nay là xã Hương Mạc tỉnh Bắc Ninh, có một ngôi nhà đã tồn tại ba thế kỷ. Đó là chứng tích của một loạt sự kiện đạo lý thế kỷ XVII và XVIII triều Lê Trịnh: đạo lý danh nhân Đàm Công Hiệu thanh liêm chính trực và đạo lý các chúa Trịnh công minh trọng đạo kính thày. Câu chuỵên cảm động giữa quốc sư họ Đàm và các chúa Trịnh đã được ghi chép ở tộc phả họ Đàm, ở các sách Lịch đại danh hiền phổ, LỊc sử văn hoá Việt Nam, Văn hoá dòng họ(1997), Cội Nguồn (1997) và đăng báo Nhân dân(2-8-1987 và 19-2-1995).
Ở phủ Hạ Hồng (Hải Dương) có vụ giết người cướp ruộng,việc đã qua 7 năm quan không xử vì thủ phạm là cậu chúa Trịnh. Năm 1694,tri phủ Đàm Công Hiệu được đổi về đó, điều tra rõ, rồi bắt thủ phạm đem xử. Việc lên phủ chúa,chúa Trịnh Căn thẩm tra quả đúng thế,liền chém thủ phạm rồi thăng chức Đàm Công Hiệu cho về trièu làm việc, kiêm dạy học các thế tử (trong số, có tằng thế tôn Trinh Cương). Ngụ ý của chúa Trịnh là các thế tử cần học đạo đức của thày Đàm Công Hiệu.Trịnh Cương học đạo đức của thày Đàm Công Hiệu. Trịnh Cương trưởng thành,lên ngôi chúa,có lần về làng Me thăm thày Hiệu đã về trí sĩ, thấy thanh bạch qua mà biếu gì thầy cũng không nhận. Chỉ còn cách nhân thầy nói là nhớ chỗ học xưa, bèn rỡ ngay nhà dạy học đó ở Văn Miếu Quốc tử giám đem về làng Me để thày được nhìn thấy, và biếu thày luôn. Đó là năm 1721. Ngôi nhà tình nghĩa đó đã trở thành nhà thờ Quốc sư Đàm Công Hiệu, đến nay là di tích đã xếp hạng. Nhà thờ này không là một trợ giúp vật chất như mọi Nhà tình nghĩa khác mà là tài sản văn hoá tinh thần vô giá của dòng họ Đàm,cũng là niềm vinh dự lớn của dân làng Me. Đây cũng là biểu trưng sáng ngời của mối quan hệ thày chính trực chúa công minh. Nhìn từ một góc độ khác, đây là một mảnh kiến trúc và trạm khắc nghệ thuật thế kỷ XVII và XVIII thời Lê Trịnh đã tránh được hoả hoạn cuối thế kỷ XVIII và được bảo tồn từ 1721 đến nay trong lòng dân,qua mọi triều chính.
Trên đây là việc ở làng Me. Còn một ngôi nhà nữa ở làng Lủ do chúa Trịnh Sâm biếu thày học Nguyễn Công Thể,cũng lại một di tích kiến trúc thời Lê Trịnh vẫn được bảo tồn trong lòng dân.
Rất đáng tự hào về di sản văn hoá tinh thần to lớn của dân tộc, của dòng họ.
5. Thời Tây Sơn Và Nguyễn (Phủ Trịnh vẫn khói hương, sáu dòng vẫn phát triển)
Năm 1786 quân Tây Sơn vào Thăng Long,chúa Trịnh Khải chết, được Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho khâm liệm theo vương lễ và dùng kiệu rồng táng ở lăng Cung quốc công. Sau đó Lý Trần Quán tự chôn mình để tỏ lòng trung với Chúa. Trịnh Hiến theo Lê Chiêu Thống sang Tàu bị nhà Thanh cầm tù vì giữ quốc thể không chịu kết tóc và mặc áo kiểu tàu. Khi Gia Long lên, ông được về làm tri phủ Ứng Thiên rồi lên chức Thự tham tri bộ Hình (chức dưới Thượng thư). Trịnh Cơ soạn gia phả nhà Chúa nộp vua Gia Long. Vua nhận họ ngoại và ra ân chiếu miễn sai dịch cho họ Trịnh, cho vật chất để tiếp tục thờ tổ tiên,thờ các chúa.
Điều đáng lưu ý là xưa nay trong sử các họ mất chính quyền nhiều khi bị tàn sát. Riêng họ Trịnh thì có khía cạnh hơi khác. Trước mắt dân Chúa được đối xử tôn trọng từ phía bên đối phương thắng trận (Tây Sơn.1786) và chính quyền xưa từng là đối địch (Vua Gia Long,1802). Đó là điều đáng suy nghĩ…ở đây ít ra một phần là do nhà Trịnh được lòng dân.
Trên đây là đối với chúa về mặt chính trị. Còn về mặt khoa bảng thì (tuy cũng có khó khăn,nhưng) tất cả sáu dòng và cả các chi vẫn phát triển tốt. Trịnh Xuân Thưởng,Trịnh Thuần, Trịnh Hữu Thăng đỗ tiến sĩ, Trịnh Huy Quỳnh đỗ phó bảng,và đỗ cao nhất lại là hậu duệ của dòng chúa: đó là hoàng giiáp Trịnh Đình Thái người làng Định Công, cháu 10 đời chúa Trịnh Tùng.
6. Thời Thuộc Pháp (lúc nào cũng có người họ Trịnh chống Pháp )
Pháp đặt nền đô hộ chưa ấm chân đã vấp phải nghĩa quân Bãi Sậy (1885). Trọng nghĩa quân ở làng Yên Phú có Trịnh Quốc Hùng và Lê Duy Lễ.
Đã cùng dân làng biến làng Yên Phú thành một căn cứ trọng yếu của quân Bãi Sậy vì cản ngay đường Hà Nội- Hải Phòng. Chính tại đây Nguyễn Thiện Giang (là em chủ suý Nguyễn Thiện Thuật) đã tử trận. Trịnh Quốc Hùng là phó tướng của Giang,lên thay chỉ huy,nhưng sau Trịnh Quốc Hùng cũng hi sinh ở gần làng Yên Phú (1889). Một chỉ huy xuất sắc nữa là Đốc Tít tức Mạc Đăng Tiết thế cùng,bị Pháp bắt đầy sang Algerie đến chết. Thế là tren mảnh đất Yên Phú-Bãi Sậy này có họ Mạc-Đăng,họ Lê Duy,và họ Trịnh, đều là hậu duệ các vua chúa các triều cũ, đã cùng đánh Pháp tại đây nhằm bảo vệ giang sơn nhà Nguyễn – Tổ quốc chung. Việc không hành, họ đều lấy cái chết đền ơn nước.
Năm 1917 Đội Cấn khởi nghĩa ở Thái Nguyên, chính tên là Trịnh Văn Cấn thuộc chi họ Trịnh ở Thọ Xuân, Thanh Hoá ( một nhánh có Trịnh Văn Cấn đi lên Vĩnh Yên, từ đó Cấn đi lính, làm chức Đội). Trong nghĩa quân Thái Nguyên còn có Trịnh Chu Gia, Trịnh Chu Quỳnh thuộc một chi họ Trịnh ở làng Bặt, tỉnh Thái Bình.
Tháng 3- 1929, ngày thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, có Trịnh Đình Cửu trong số 7 đảng viên đó. Ngày 3-2-1930, ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ( thật đầy đủ là từ ngày 3 đến ngày 7-3-1930 và ngay sau đó) Hội nghị thành lập Đảng thông qua chính cương, sách lược điều lệ ( vắn tắt), lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc và thành lập “ Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu” ( Theo Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản tại Hà Nội năm 1995, trang 40-41). Trịnh Hữu Thường là lớp Đảng viên 1930 . Năm 1932, Trịnh Như Tấu xuất bản cuốn Trịnh Gia Chính Phả, đó là ( trong số) cuốn gia phả chữ quốc ngữ đầu tiên xuất bản ở nước ta. Năm 1937 Trịnh Đình Kính dẫn đại biểu một số chi họ Trịnh về Thanh Hoá giữ đất tổ bị lấn và bảo tồn di vật. Cuối chiến tranh thế giới II đến khởi nghĩa có rất nhiều người họ Trịnh hoạt động cứu nước trong tổ Việt Minh và Cộng sản. Thí dụ Trịnh Phúc Biền (dưới tên Lê Minh Định) là xứ uỷ viên Nam Kỳ; Trịnh Lãm dưới tên Trần Tiến Quân là phó chỉ huy chiến khu Ngọc Trạo, sau 19-8-1945 là phó chủ tich tỉnh Thanh Hoá. Gia đình cụ Trịnh Bá Bổng ở Yên Nghĩa là một nơi đóng (trụ sở) của xứ uỷ Bắc Kỳ,nơi qua lại, ở và làm việc của cán bộ cách mạng Trung ương Đảng như Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Trần Đăng Ninh, Hoàng Quốc Việt, v.v. Trịnh Đình Trọng là bí thư Thành uỷ Sài Gòn 1945-1946. Trịnh Xuân Cảnh (dưới tên Nguyễn Văn Tình) là liên lạc Xứ uỷ Nam Kỳ với Trung ương những tháng trước khởi nghĩa. Trịnh Văn Bô ở 48 phố Hàng Ngang Hà Nội là cơ sở nơi Bác Hồ ngồi viết Tuyên ngôn Độc lập. Luật sư Trịnh Đình Thảo thuộc dòng Trịnh Dình ở Làng Mọc- Nhân Chính ( Hà Nội) là luật sư nổi tiếng về bảo vệ các chiến sĩ cách mạng trước toà đại hình của Pháp. Sang thời kháng chiến, ông bị thực dân Pháp và chính quyền Sài Gòn nhiều lần bắt giam; sau ông ra vùng giải phóng, làm chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam (1968), phó chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời miền nam Việt Nam (1969), sau 1975 là Đại biểu Quốc hội khoá VI, uỷ viên Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc.
7. Thời độc lập (Họ Trịnh kháng chiến và xây dựng đất nước)
Những ngày đầu có chính quyền, Trịnh Văn Bính là thứ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ CỘng Hoà năm 1945 và làm liên tục gần 40 năm với chức đó cho tới khi cụ nghỉ hưu. Trịnh Văn Bô là Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Công thương Việt Nam, ngân hàng đầu tiên nước ta độc lập.
Kháng chiến, ngay tiếp đó nổ súng kháng chiến chống Pháp thì gia đình Trịnh Bá Bổng ở Yên Lộ là địa điểm một cuộc họp trọng đại (theo Lịch sử cách mạng tỉnh Hà Tây, 1998); nhà thờ họ Trịnh là nơi nửa đêm tập kết cán bộ đến họp, trong số có các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Tràn Đăng Ninh, cuộc họp an toàn dù thôn Yên Lộ chỉ cách Hà Nội đang khói lửa 10 km chim bay.
Trịnh Xuân Bái là anh hùng lao động nông nghiệp toàn quốc. Ông là một trong bảy anh hùng phong đợt đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đại tướng Lệ Trọng Tấn chính là Trịnh Trọng Tấn ( thông tin này in ở trang 24, quyển Kỷ Yếu Hội thảo Chúa Trịnh năm 1995). Tướng Lê Trọg Tấn thuộc dòng Trịnh Bản, chi Trịnh Hiến ở xã Yên Nghĩa, ông là uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân. Ông đã tham gia nhiều chiến dịch quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, như các chiến dịch biên giới, đường 9 nam Lào, Bình Trị Thiên, v.v. Nhưng quan trọng bậc nhất phải kể chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh. Báo An ninh thế giới số đặc biệt ra ngày 2-5-1998 Kỷ niệm 23 năm Giải phóng miền Nam và 44 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, đã đăng bài ở trang 1, nguyen văn như sau:
“Đại tướng Lê Trọng Tấn” ( tức Trịnh Trọng Tấn, BD) _ vị tư lệnh chiến trường, người hai lần cầm quân đánh vào cơ quan đầu não của địch, kết thúc hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong hồi ức của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:… có một Đại tướng hai lần cầm quân đánh vào Sở chỉ huy đầu não của địch là hầm Đờ Cát và Dinh Độc Lập, đó là anh Lê Trọng Tấn …”.
Tin khác đã đăng
- Trịnh Thị Ngọc Phả ký – Gia phả của Trịnh Đình Trinh 02/04/2015
- Sự nghiệp của các Chúa Trịnh 02/04/2015
- Một số tư liệu lịch sử, gia phả 02/04/2015
- Thời Mạc và Lê Trịnh – gọi chung là thời Lê Trung Hưng (1527-1788) 02/04/2015
- Họ Trịnh và Thăng Long 02/04/2015
There are no comments yet